Lãi suất vẫn cao
Kể từ sau đợt giảm lãi suất điều hành giữa tháng 3, lãi suất huy động kỳ hạn từ 6 tháng đến 13 tháng của các ngân hàng thương mại cổ phần đã hạ nhiệt xuống dưới 10%/năm, xoay quanh ngưỡng 9,5%/năm, tùy kỳ hạn và giá trị khoản tiền gửi, tương đương mặt bằng lãi suất của thời điểm 5 tháng trước đây. Đà giảm của lãi suất huy động kỳ hạn từ 13 tháng trở lên giảm mạnh hơn, thể hiện kỳ vọng lãi suất trong trung hạn sẽ giảm.
Hiện tại, lãi suất ở nhóm 4 ngân hàng có cổ phần chi phối của Nhà nước đã về mức 5,6%/năm chung cho kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng, từ 12 tháng trở lên là 7%/năm. Như vậy, có sự chênh lệch khá lớn về mặt bằng lãi suất huy động giữa các ngân hàng quốc doanh với ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân.
Tương ứng với việc hạ lãi suất huy động, mặt bằng lãi suất cho vay cũng được điều chỉnh. Lãi suất cho vay khách hàng doanh nghiệp dao động trong khoảng 12-14%/năm, vay tín chấp có thể lên đến 19-21%/năm. Một bộ phận doanh nghiệp thuộc lĩnh vực ưu tiên vay lãi suất 9%/năm. Vay ngắn hạn tại các ngân hàng quốc doanh lãi suất là 9%/năm.
Ngày cuối tháng 3, Ngân hàng Nhà nước đã ra quyết định giảm một số loại lãi suất, trong đó lãi suất tối đa với tiền kỳ hạn dưới 1 tháng và dưới 6 tháng giảm 0,5% xuống còn 0,5% và 5,5%/năm. Mức giảm này thấp hơn mức giảm kỳ vọng 1% nhưng cũng cho thấy bước đi thận trọng của cơ quan điều hành.
Các quyết định giảm lãi suất điều hành sẽ thúc đẩy giảm lãi suất huy động các kỳ hạn khác trên thị trường từ đầu tháng 4 này từ đó đẩy nhanh quá trình giảm lãi suất cho vay sản xuất kinh doanh đang được doanh nghiệp mong đợi.
Hiện nay, rất ít nước áp dụng lãi suất thực dương (so với lạm phát) như ở Việt Nam. So với dữ liệu quá khứ thì mức lãi suất thực dương tới 5% hiện nay là cao khác thường, khiến chi phí lãi suất là gánh nặng với doanh nghiệp.
Năm ngoái, xu hướng lãi suất tăng là tất yếu để kiềm chế lạm phát, ổn định tỷ giá. Nhưng lãi suất huy động đã tăng lên mức rất cao là do áp lực huy động vốn của các ngân hàng nhằm đảm bảo các chỉ số vốn vay trên vốn huy động ở mức quy định trong bối cảnh tiền rút khỏi thị trường trái phiếu và thị trường bất động sản đóng băng do siết tín dụng.
Ông Nguyễn Quốc Việt, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR), Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội đánh giá, từ đầu năm đến nay, tăng trưởng tín dụng thấp chủ yếu do nền lãi suất huy động và cho vay cao, trong khi sức khoẻ doanh nghiệp cạn kiệt, không kham nổi chi phí vốn tăng cao, nhu cầu vay vốn phục vụ sản xuất - kinh doanh (nhất là xuất khẩu) giảm sút. Mục tiêu tăng trưởng tín dụng năm là 14 - 15%, mà tới tháng 2 mới có 0,77% là quá thấp. Ngoài lý do trên thì mấu chốt còn do tỷ lệ cho vay trên tiền gửi khách hàng (LDR) vượt quá 100% ở nhiều ngân hàng thương mại tư nhân, nghĩa là cho vay nhiều hơn lượng tiền huy động được. Ngoài ra, tỷ lệ tín dụng của nền kinh tế vượt quá tổng sản phẩm trong nước cũng gây những quan ngại và cảnh báo của nhiều chuyên gia và tổ chức quốc tế.
Với những cảnh báo rủi ro hệ số an toàn ngân hàng đang tăng cao như trên, việc thúc đẩy cho vay ra đã là khó, chưa nói đến hạ lãi suất cho vay.
Ông Việt phân tích, vấn đề càng trở nên phức tạp hơn sau vụ việc một số ngân hàng ở nước ngoài bị phá sản, dẫn đến hai e ngại: Một là, nếu cho nới chỉ số an toàn thì có thể làm nợ xấu tăng thêm, ngân hàng ôm thêm nợ của cả “zombie doanh nghiệp”, làm trầm trọng hơn các rủi ro; hai là, nếu khủng hoảng tài chính thế giới trầm trọng hơn, tác động nhiều hơn đến doanh nghiệp Việt Nam khi sức khoẻ tài chính không tốt sẽ bị ảnh hưởng dây chuyền, nên cần thận trọng và phòng bị các nguy cơ xấu hơn.
“Theo tôi, giải pháp trước mắt vẫn phải tiếp tục hạ lãi suất điều hành (trong bối cảnh một số yếu tố vĩ mô quốc tế và trong nước đã khá thuận lợi để làm việc này), bên cạnh việc điều tiết cung tiền nhịp nhàng như thời gian qua. Để giải quyết vấn đề nợ xấu có thể ảnh hưởng đến an toàn tín dụng, nên chăng có sự uyển chuyển và phân loại, khoanh vùng các khu vực có rủi ro cao lại để có hướng xử lý riêng biệt”, ông Việt nói.
Hiện tại, theo các chuyên gia, thanh khoản trong toàn hệ thống thì dư thừa nhưng kém thanh khoản cục bộ. Không ít ngân hàng vẫn neo lãi suất ở mức cao, chứng tỏ thanh khoản có vấn đề, lý do bao trùm vẫn xoay quanh câu chuyện trái phiếu doanh nghiệp, bao gồm cả nợ bất động sản.
Lần gỡ từng nút thắt
Thời gian qua, các chính sách tháo gỡ khó khăn, ổn định thị trường trái phiếu đã được cơ quan quản lý tích cực ban hành. Sau Nghị định 08/2023 của Chính phủ, dự thảo sửa đổi Thông tư 16/2021 của Ngân hàng Nhà nước về việc tổ chức tín dụng mua, bán trái phiếu doanh nghiệp được đưa ra lấy ý kiến các bên liên quan.
Điểm được hoan nghênh nhất tại dự thảo này là cho phép cho các ngân hàng đã bán trái phiếu doanh nghiệp cho nhà đầu tư mua lại trái phiếu doanh nghiệp trước ngày 31/12/2023, thay vì điều kiện mua lại sau 12 tháng. Điều này giúp các ngân hàng thực hiện vai trò tạo lập thị trường, củng cố lại niềm tin của nhà đầu tư, mặt khác giúp cho việc cơ cấu chủ nợ cô đặc hơn, dễ đạt được sự thống nhất phương án tái cấu trúc nợ giữa chủ nợ và doanh nghiệp như quy định tại Nghị định 08 ban hành trước đó.
Phiên giao dịch cuối tuần qua, thị trường chứng khoán thể hiện sự hứng khởi trước thông tin lãi suất tiếp tục hạ trong thời gian tới. |
TS. Lê Đạt Chí, Giám đốc Chương trình Tài chính ứng dụng, Đại học Rennes (Pháp) đánh giá, dự thảo Thông tư sửa đổi Thông tư 16 siết quy định đối tượng trái phiếu doanh nghiệp ngân hàng được mua với các điều kiện đánh giá khả năng thanh toán, mục tiêu sử dụng vốn, chỉ số nợ trên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp phát hành…, đảm bảo kiểm soát rủi ro, đảm bảo an toàn hệ thống và nhờ thế, room tín dụng sẽ tập trung hơn vào hạng mục cho vay khách hàng.
Đáng chú ý, bản thuyết minh dự thảo sửa đổi của Thông tư 16 nêu lo ngại về hoạt động mua bán trái phiếu doanh nghiệp của các tổ chức tín dụng là chưa có quy định điều kiện phát hành trái phiếu về năng lực tài chính; cơ chế kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn của các khoản phát hành trái phiếu chưa chặt chẽ; tỷ lệ trái phiếu có tài sản bảo đảm lớn nhưng thực tế chất lượng tài sản bảo đảm không cao, tiềm ẩn nhiều rủi ro về khả năng thu hồi nợ của ngân hàng.
Kết quả thanh tra, kiểm tra của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, lo ngại của thị trường về “nợ xấu dưới chiếc áo trái phiếu” là đúng, vì tài trợ vốn dưới hình thức trái phiếu dễ dàng hơn nhiều, thậm chí là thiếu tiêu chuẩn so với bộ tiêu chuẩn thẩm định khắt khe của cho vay tín dụng.
Nhìn tổng thể các chính sách được ban hành, ông Chí phân tích, cùng với Nghị định 08 và Thông tư 16 sửa đổi, tới đây, các ngân hàng sẽ phải sàng lọc và phân loại chất lượng trái phiếu doanh nghiệp nắm giữ; đánh giá lại năng lực trả nợ của doanh nghiệp và nhất là yêu cầu bổ sung tài sản đảm bảo đạt chất lượng.
“Gần đây, thị trường lại chứng kiến một số thương vụ trái phiếu phát hành thành công, một phần do doanh nghiệp và ngân hàng tranh thủ thời điểm tín dụng chưa vào nền kinh tế thì sử dụng room này để đảo nợ kỹ thuật, vì đằng nào doanh nghiệp cũng cần bổ sung tài sản đảm bảo cho khoản vay mới. Nếu Thông tư 16 sửa đổi ban hành thì nghiệp vụ phát hành đảo nợ của các doanh nghiệp sẽ khó khăn hơn, do phải đáp ứng các điều kiện mua trái phiếu chặt chẽ hơn trước”, ông Chí nhận định.
Ông Chí lưu ý, dự thảo Thông tư sửa đổi Thông tư 16 buộc quy trình nội bộ ngân hàng phải đưa ra những tiêu chí cụ thể đánh giá phương án phát hành trái phiếu doanh nghiệp của tổ chức phát hành có khả thi cũng như các tiêu chí xác định doanh nghiệp phát hành có khả năng tài chính đảm bảo việc thanh toán đủ gốc và lãi. Nếu càng chi tiết hoá thì càng khó cho ngân hàng, vì rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp phát hành thì không thể có một tiêu chí nào định lượng được. Các tiêu chí có thể lượng hoá tình hình hiện tại nhưng những rủi ro là tương lai và không thể biết thì làm sao thoả mãn được tiêu chí về năng lực tài chính đủ để thanh toán đủ lãi và vốn gốc.
Vậy, phải chăng năng lực này hiểu theo nghĩa có tài sản thế chấp? Nghĩa là doanh nghiệp phát hành lô trái phiếu doanh nghiệp phải có đầy đủ tài sản đảm bảo, tài sản đảm bảo này cần có thanh khoản và giá trị so với giá trị lô trái phiếu thì ngân hàng mới được mua lô trái phiếu đó.
Đề xuất một giải pháp dài hạn hơn, ông Chí cho rằng, sau khi các lô trái phiếu được chỉnh đốn, phân loại chất lượng thì có cơ sở, điều kiện để Ngân hàng Nhà nước tham gia hỗ trợ thanh khoản thị trường trái phiếu, giúp giải tỏa “cục máu đông” trái phiếu trong hệ thống ngân hàng bằng công cụ tái chiết khấu. Các trái phiếu đạt chuẩn có thể được tái chiết khấu với cam kết mua lại của ngân hàng thương mại như kinh nghiệm xử lý nợ xấu trước đây. Từ đó, các ngân hàng thương mại có nguồn vốn, có thanh khoản dồi dào để cho vay, giảm áp lực tăng lãi suất huy động.
Điều này, có được thực hiện hay không tùy thuộc ý chí Ngân hàng Nhà nước, nhưng chừng nào “cục máu đông” trái phiếu chưa rã thì áp lực thanh khoản và lãi suất còn cao, gây khó khăn cho doanh nghiệp và nền kinh tế.
Quan sát trên thị trường, Công ty Chứng khoán TCBS vừa giới thiệu rộng rãi đến nhà đầu tư sản phẩm trái phiếu iBond Protect có kỳ hạn 1 năm phù hợp với nhu cầu đầu tư ngắn hạn, trong đó có điều kiện là Ngân hàng Techcombank bảo lãnh thanh toán, đảm bảo khách hàng luôn nhận được đầy đủ gốc, lãi trái phiếu trong mọi trường hợp.
Hiểu đơn giản là nhà đầu tư đặt niềm tin vào ngân hàng, còn phía ngân hàng bao hết rủi ro để tạo thanh khoản cho các trái phiếu đang nắm giữ, có nguồn bổ sung vốn kinh doanh. Thanh khoản cho trái phiếu doanh nghiệp là điều các ngân hàng đang rất cần.
Ông Phạm Tiến Dũng, Giám đốc Phân tích Công ty Chứng khoán Bảo Việt
Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 16 có một số quy định mang tính nới lỏng hơn như cho phép các tổ chức tín dụng được mua lại trái phiếu doanh nghiệp đã bán trong vòng 12 tháng khi thỏa mãn điều kiện và cho phép tổ chức tín dụng mua trái phiếu doanh nghiệp phát hành với mục đích tăng vốn lưu động.
Nhìn chung, dự thảo Thông tư sửa đổi này mang nhiều yếu tố tích cực hơn trong việc xử lý những vấn đề của thị trường trái phiếu doanh nghiệp so với Thông tư 16.
Với những điểm nới lỏng hơn, dự thảo mới nếu được thông qua sẽ góp phần tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các tổ chức tín dụng đầu tư trái phiếu doanh nghiệp để bổ sung vốn lưu động, thay vì phải có một phương án phát hành cụ thể, đồng thời tháo gỡ những áp lực mà một số tổ chức tín dụng đang gặp phải với các trái phiếu phát hành và phân phối trước đó mà doanh nghiệp chưa có khả năng chi trả.
Bên cạnh đó, các nội dung sửa đổi cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng có thể giám sát chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp phát hành, và giảm lượng trái phiếu doanh nghiệp được nắm giữ bởi các nhà đầu tư cá nhân.
Do đó, chúng tôi kỳ vọng với dự thảo thông tư mới này, các nút thắt trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp sẽ dần được gỡ bỏ, qua đó, giúp cho khả năng huy động vốn qua thị trường trái phiếu doanh nghiệp sớm được cải thiện trong thời gian tới.
Ông Khổng Phan Đức, Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty Quản lý quỹ VietinBank
Chúng ta cần xác định, việc tắc nghẽn dòng chảy vốn trong nền kinh tế xuất phát từ các vướng mắc trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Dù vậy, đây lại là vấn đề khá khó giải quyết bằng một giải pháp đơn lẻ, rất cần bàn tính một giải pháp tổng thể hơn sau các tháo gỡ đã nêu ra ở Nghị định 08. Bởi nếu đánh đồng một giải pháp cho các trái phiếu doanh nghiệp như hiện nay, sẽ khó đạt được hiệu quả mong muốn và có thể khiến các cơ quan quản lý nhà nước khó có giải quyết tận gốc vấn đề trái phiếu doanh nghiệp.
Ông Cao Việt Hùng, Giám đốc Phân tích ngành ngân hàng, Công ty Chứng khoán ACB
Dự thảo sửa đổi Thông tư 16 là một trong những động thái để hỗ trợ thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển một cách lành mạnh, giúp cải thiện tâm lý của nhà đầu tư - vốn đang ở mức rất thấp sau một số sai phạm trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp.
Dự thảo này tập trung vào việc làm rõ, chi tiết và hoàn thiện nhiều nội dung của Thông tư 16 nhằm tránh những “lỗ hổng” và những điều khoản chưa rõ ràng. Ví dụ như có quy định rõ ràng về tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu không vượt quá 5 lần trên báo cáo tài chính gần nhất được kiểm toán, tránh tình trạng doanh nghiệp lạm dụng trái phiếu đẩy đòn bẩy tài chính lên cao.
Ông Trương Thái Đạt, Giám đốc Phân tích, Công ty Chứng khoán DSC
Tốc độ giảm lãi suất cho vay chậm có thể do dự báo triển vọng kinh tế khó khăn khiến các ngân hàng không mặn mà với tăng trưởng tín dụng, doanh nghiệp đang gặp nhiều khó khăn về thanh khoản nên ngân hàng cần lãi suất cao hơn để bù trừ cho rủi ro tăng dần trong năm 2023. Dự báo Ngân hàng Nhà nước có thể áp trần lãi suất cho vay và huy động. Dưới mức trần sẽ hoạt động dựa theo cung - cầu, cân đối của các ngân hàng và thỏa thuận giữa ngân hàng với khách.
Tiến độ giải ngân gói hỗ trợ lãi suất 2% cho các doanh nghiệp với mức hỗ trợ lên tới 40.000 tỷ đồng rất chậm, vì cả doanh nghiệp lẫn ngân hàng đều sợ những vướng mắc liên quan tới thủ tục pháp lý. Các doanh nghiệp sợ trong tương lai sẽ phải chịu thanh tra, kiểm tra nhiều hơn ngân hàng sợ rủi ro xảy ra sai phạm cao. Tôi cho rằng, cần có các biện pháp về mặt pháp lý nhằm thúc đẩy gói hỗ trợ này mạnh hơn.
Ông Ngô Thế Hiển, Trưởng phòng Phân tích, Công ty Chứng khoán SHS
Tôi cho rằng khó kỳ vọng lãi suất cho vay sẽ giảm mạnh trong thời gian tới, bởi mặt bằng huy động của các ngân hàng cao hơn so với năm ngoái, trong khi Ngân hàng Nhà nước phải điều hành thận trọng lãi suất điều hành trong bối cảnh tình hình lạm phát vẫn diễn biến phức tạp (CPI quý I/2023 tăng 4,18% so với cùng kỳ năm ngoái) và ngân hàng trung ương các nước lớn như Fed, ECB vẫn tiếp tục tăng lãi suất trong khi nhiều yếu tố tiêu cực vẫn tiềm ẩn.
Ông Vương Hoàng Sơn, Giám đốc Khối IB, Công ty Chứng khoán VNDIRECT
Hàng loạt ngân hàng thương mại tung ra các gói hỗ trợ lãi suất cho vay trong thời gian gần đây, giúp mặt bằng lãi suất đầu ra trung bình giảm từ 1 – 1,5%/năm trong thời gian tới, song rất khó kỳ vọng lãi suất quay trở về mặt bằng của giai đoạn 2021 - 2022.
Ngoài chính sách điều hành của Ngân hàng Nhà nước để giảm lãi suất thì bản thân các ngân hàng thương mại cũng cần có các biện pháp nhằm giảm chi phí vốn như tiết giảm chi phí hoạt động, cân bằng giữa lợi ích các bên… để từ đó có dư địa cho việc hạ lãi suất.