01. Xuất xứ "bí ẩn" của những nhãn hiệu lạ lùng trên Amazon
Trên Amazon, nếu tìm giày chạy với mức giá khoảng 30 USD và lướt qua vài trang kết quả đầu tiên, bạn sẽ bắt gặp những thương hiệu mà mình chưa từng nghe tên. Một số có vẻ đi theo thứ tự abc - kiểu như Zocavia, Zocania, Zonkim - trong khi một số đơn thuần là những cái tên khó hiểu: Biacolum, Qansi, NYZNIA.
Nghiên cứu ảnh sản phẩm và sự liên quan dần lộ diện.
Sản phẩm Giày Tập Gym Đi bộ Chạy Thể thao Lưới Siêu nhẹ Thoáng khí cho Nam của Qansi trông hệt như Giày Thể thao Tập thể dục Đi bộ Vải dệt Chống trượt Giày Tennis Tập Gym Chống trượt Giày Chạy cho Nam của Biacolum, và không khác gì Giày Tập thể dục Đi bộ Chống trượt Vải lưới Giày lười Tập Gym Tennis Siêu nhẹ Giày Chạy cho Nam của Zocavia.
Kiểu ngôn ngữ này có thể được gọi là Amazonglish: kỳ quặc nhưng cơ bản là dễ hiểu, thừa thãi nhưng lợi cho tìm kiếm. Thông thường, phần mô tả sản phẩm cũng chỉ đúng ngữ pháp, chính tả ở mức đủ để vượt qua lưới lọc của máy tính.
Tuy nhiên, có 1 từ gần như không bao giờ xuất hiện trong từ điển Amazonglish - đó là " Trung Quốc ".
Sản phẩm của nhãn hiệu Zocavia trên Amazon. Ảnh: Screenshot
Marketplace Pulse, chuyên phân tích thương mại điện tử, cho biết gần một nửa trong số top seller (tài khoản bán chạy nhất) - với mức doanh thu hàng năm hơn 1 triệu USD ở Mỹ - là từ Trung Quốc.
Trên trang sản phẩm, các nhà kinh doanh Trung Quốc không mấy khi sử dụng địa điểm của mình để quảng cáo, Zocavia và Zocania không đề cập tới nơi sản xuất, thậm chí lên trang web của Văn phòng Đăng ký Sáng chế và Nhãn hiệu Mỹ còn tìm được nhiều thông tin hơn.
Ở trang về nhãn hiệu, Zocavia và Zocania trên thực tế được đăng ký cho cùng một người ở Tứ Xuyên, Trung Quốc. Những thương hiệu này, cùng với Zonkim, Biacolum, NYZNIA và hàng chục cái tên khác nằm trong phạm vi quản lý của một công ty có tên Công nghệ Mạng lưới Kimzon.
Trụ sở của Kimzon nằm trên tầng 16 của một tòa nhà văn phòng ở Thành Đô và vào mùa xuân năm 2020, giữa cơn đại dịch, người chủ đã nói với tôi rằng anh ta đang cân nhắc lại đường hướng hoạt động ở thị trường Mỹ.
02.
Gói kích thích kinh tế của Trump "cứu vớt" thương nhân Trung Quốc
Đó là ngày 26/4, Li Dewei đeo tai nghe Bluetooth màu đen, vận một bộ quần áo đen và đi một đôi giày đen - không món nào trong số này được sản xuất từ 3 nhà máy của anh ta. Li, chủ công ty, mới trong độ tuổi 30 nhưng đã có cung cách nghiêm ngắn của một người lớn tuổi.
Thành Đô, giống như mọi thành phố Trung Quốc khác, đã đưa đại dịch Covid-19 vào trong tầm kiểm soát, và Li cho biết cách đây một tuần anh đã ngừng yêu cầu nhân viên đeo khẩu trang ở nơi làm việc. Dù vậy, Li phải đương đầu với tác động kinh tế do dịch bệnh. Tháng 3, Li đã phải sa thải 50 nhân viên - 1/3 số nhân sự ở Thành Đô của anh.
Li nói, mọi chuyện có thể tệ hơn nếu không có gói kích thích kinh tế mà chính quyền Trump phân bổ theo đạo luật CARES (Đạo luật Viện trợ, Cứu trợ và An ninh Kinh tế Coronavirus Liên bang). Vì Li bán trực tiếp cho các khách hàng Amazon, anh có thể theo dõi doanh thu một cách chặt chẽ.
"Chúng tôi kiểm tra số liệu mỗi ngày", Li nói, "Sau khi chính phủ Mỹ bắt đầu phát tiền, chúng tôi thấy doanh thu tăng ngay hôm sau". Lúc tôi gặp Li, 2 tuần sau chương trình kích thích kinh tế, doanh thu ở Mỹ của Kimzon gần gấp đôi mặc dù vẫn thấp hơn bình thường một chút.
"Chúng tôi không biết liệu mức độ tiêu thụ hiện thời với gói cứu trợ của chính phủ Mỹ có phải xu hướng ngắn hạn hay không", Li nói.
Không lâu trước đó, Li đã trao đổi với đối tác của mình và một số doanh nhân chuyên xuất khẩu khác. Họ cho rằng tháng 6/2020 là một tháng trọng điểm. "Nếu tới tháng 6, dịch bệnh được kiểm soát hoàn toàn ở Mỹ và châu Âu thì chúng tôi có thể hồi phục về mức bình thường", Li nói.
Dù vậy các doanh nhân đều kết luận rằng Mỹ và các nước châu Âu khó có thể xử lý tốt đại dịch. Ngoài ra, Li cũng lo ngại về cuộc xung đột kéo dài giữa Mỹ và Trung Quốc.
Thông thường trong 1 năm, 70% doanh thu của Kimzon đến từ Mỹ, 20% từ châu Âu và 10% từ Nhật. Kimzon không buôn bán ở thị trường Trung Quốc. Với Li và đối tác của anh, giải pháp có vẻ rõ ràng: Giảm hoạt động ở thị trường Mỹ bằng cách bán các sản phẩm của Zocavia, Zocania và các thương hiệu khác cho người tiêu dùng Trung Quốc.
"Nhiều lĩnh vực ở Trung Quốc không bị ảnh hưởng tồi tệ bởi đại dịch, ví dụ như dịch vụ hậu cần", Li giải thích. Nhân viên của anh đã thiết kế lại một số mẫu giày và chuẩn bị chiến dịch kinh doanh trong nước, mục tiêu là đạt 1/3 mức tiêu thụ của công ty tại thị trường Trung Quốc trong vòng 1 năm. Li kỳ vọng, sau 3 tháng anh sẽ biết liệu kế hoạch có thành công hay không.
03.
Nỗ lực "mòn mỏi" của Mỹ
Tháng 8/2019, tôi và gia đình chuyển tới Thành Đô, tại đó tôi dạy báo chí và tiếng Anh ở đại học Tứ Xuyên. Đó là lần thứ hai tôi tới vùng này trong giai đoạn quan hệ Mỹ-Trung nhiều biến động.
Năm 1995, hai nước bước vào giai đoạn căng thẳng sau khi Bộ Ngoại giao Mỹ cấp visa cho lãnh đạo Đài Loan lúc bấy giờ Lý Đăng Huy. Trung Quốc đã phản ứng đầy giận dữ trước động thái này với một loạt vụ thử tên lửa ở vùng biển gần Đài Loan.
Tháng 3/1996, Mỹ cử tàu tới gia nhập cùng 2 tàu sân bay trong khu vực - động thái phô trương sức mạnh quân sự rõ nét nhất của Mỹ ở châu Á kể từ Chiến tranh Việt Nam.
Mùa hè năm ấy, tôi tới Thành Đô dưới vai trò một tình nguyện viên Đoàn Hòa bình (Peace Corps). Cùng với Adam Meier, một thanh niên trẻ người Mỹ, tôi được phân công tới giảng dạy ở một trường đại học tại vùng sâu vùng xa của Tứ Xuyên. Bill Clinton đang chạy đua tái tranh cử Tổng thống và ông thường bị truyền thông Trung Quốc công kích.
Cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton. Ảnh: WSJ
Sau đó vài năm, một trong số các sinh viên gửi cho tôi một bức thư, trong đó bày tỏ cảm nhận về thời điểm ấy: "Không lâu sau khi thầy về dạy, em đọc báo thấy bình luận rằng, nếu ông Clinton tái cử, thì một trong số các lý do là bởi ông ta sẽ mạnh tay hơn với Trung Quốc. Ngày đó, em rất ghét gặp thầy và thầy Meier".
Thế nhưng người ta thường không công khai bày tỏ những quan điểm như vậy. Ở Tứ Xuyên, người dân thường có một hướng tiếp cận thực dụng đối với chính trị và trường đại học chấp nhận rủi ro mời giáo viên nước ngoài như một phần trong chính sách "cải cách và mở cửa" của Đặng Tiểu Bình.
Bill Clinton hóa ra lại tốt với Trung Quốc hơn dự đoán của bất kỳ ai. Trong nhiệm kỳ thứ 2, Quốc hội Mỹ đã trao cho Trung Quốc đặc quyền thương mại vĩnh viễn và Clinton bắt đầu tiến trình đàm phán cho phép Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) - chuyện xảy ra vào năm 2001.
Trong suốt các chính phủ kế nhiệm, nước Mỹ hầu như theo đuổi một chiến lược tiếp xúc với Trung Quốc. Ngay cả chính sách "Xoay trục sang châu Á" của Tổng thống Obama, vốn tính tới khả năng đối phó với tầm ảnh hưởng đang lên của Trung Quốc trong khu vực, dường như cũng không đem lại hiệu quả cao.
Khi tôi quay trở lại Thành Đô, lợi ích vật chất của thời kỳ cải cách có thể thấy ở bất cứ đâu: hệ thống tàu điện ngầm rộng khắp, khuôn viên đại học Tứ Xuyên hoàn toàn mới, một khu vực thương mại với nhiều nhà cao tầng, nơi Kimzon cùng nhiều công ty khác tọa lạc.
Trong lớp học, tôi cảm thấy sự thay đổi ở mức độ sâu nhất. Sinh viên bật cười khi tôi cho họ xem các bức ảnh tập thể hồi 1996 - với chiều cao 1m75, tôi cao hơn hẳn các sinh viên trong lớp.
Bây giờ, vì mức sống nâng cao, có vẻ tôi thấp hơn phần lớn các nam sinh của mình. Năm ngoái, The Lancet công bố một nghiên cứu cho rằng trong số 200 nước, Trung Quốc là nước đứng đầu về mức tăng ở chiều cao của nam giới, và đứng thứ ba về mức tăng ở chiều cao của nữ giới, kể từ năm 1985. Hiện nay, một nam thanh niên Trung Quốc 19 tuổi cao hơn trước 8-9cm.
Hầu hết sinh viên của tôi tới từ các gia đình trung lưu thành thị, phần lớn ghi danh vào một chương trình cho phép họ học 1-2 năm cuối tại Đại học Pittsburgh, cùng gần 400.000 người Trung Quốc học tập tại Mỹ mỗi năm.
Kế bên tòa nhà nơi tôi dạy học, một công trình 4 tầng với mặt tiền bằng kính vừa được hoàn thiện, trên đó có hàng chữ mạ vàng lớn đề: "Viện Marx". Tòa nhà gợi tôi nhớ tới các học sinh của mình: cao lớn hơn, mạnh khỏe hơn và ăn mặc đẹp hơn. Viện Marx được thiết kế với gara đỗ xe rộng rãi ở tầng hầm.
Trước khi ông Trump nhậm chức, ở Washington đã có quan điểm cho rằng người Trung Quốc được lợi quá nhiều từ mối quan hệ song phương. Các quan chức chính quyền Trump thường xuyên vận động "phân ly kinh tế" (decoupling) - tách khỏi Trung Quốc trong các lĩnh vực kinh tế và công nghệ.
Mùa xuân năm 2018, Trump bắt đầu áp thuế cao đối với hàng hóa Trung Quốc và Bắc Kinh đáp trả. Các chương trình trao đổi cũng chịu sức ép. Trong suốt năm đầu tiên ở Đại học Tứ Xuyên, Trump đột ngột chấm dứt chương trình Đoàn Hòa bình Trung Quốc cùng toàn bộ hoạt động trao đổi Fulbright với Trung Quốc và Hong Kong.
04.
Vì sao chính phủ Trung Quốc không "phát tiền"?
Tại Thành Đô, hầu như mọi người phản ứng cùng một kiểu. Li Dewei nói với tôi rằng anh ta không có quan điểm mạnh về chính trị Mỹ và rằng, sau khi thuế bị áp lên mặt hàng giày dép thì Li đơn giản chỉ tăng giá trên Amazon thêm 15%. "Thuế do khách hàng trả", Li nói.
Ở khoa của tôi, sinh viên có thể đăng ký các buổi phụ đạo với giáo viên hướng dẫn tại một trung tâm. Trước khi tôi đến, họ có kế hoạch mua phần mềm xếp lịch học từ một công ty của Mỹ. Nhưng thỏa thuận đổ bể, và một quản trị viên nói với chúng tôi trong các cuộc họp rằng ông tin lý do thất bại là vì thương chiến.
Vì vậy, khoa tìm tới một công ty của Anh, Fresha, chuyên cung cấp phần mềm cho các salon, spa và cơ sở mát-xa. Bất cứ khi nào tôi nhận được thông báo phụ đạo, sinh viên lại được mô tả như một "khách hàng" và email quảng cáo lại chào mời tôi sử dụng các đặc tính bổ sung như chế độ dành cho "mani-pedi (chăm sóc tay-chân) hay mát-xa đôi".
Ngày 14/5, tôi gặp Li Dewei ăn tối và anh nói với tôi rằng Kimzon đang chật vật với kế hoạch chuyển hướng sang thị trường nội địa. "Doanh thu vẫn chưa tốt", Li nghĩ rằng phong cách có thể là một vấn đề nên Kimzon đang chuyển sang sản xuất giày đế trắng thay vì đế đen với hy vọng điều đó có thể hấp dẫn các khách hàng Trung Quốc.
Hồi tháng 3, khi đại dịch bắt đầu tác động tới Mỹ, Kimzon đã giảm sản lượng xuống 500 đôi/ngày. Nhưng hiện nay mức độ sản xuất đã tăng lên 2000, gần với mức bình thường. Mặc dù Li sa thải nhân sự trong mảng thiết kế và kinh doanh nhưng anh không bao giờ thu hẹp dây chuyển sản xuất. Li cho biết, ưu tiên hàng đầu là bảo vệ chuỗi cung ứng.
Mặc dù việc làm ăn của Li hoàn toàn trên Amazon, anh chưa bao giờ tới Mỹ. Hồ sơ của Li tương đối khiêm tốn: Bố mẹ anh lớn lên trong gia đình làm nông và họ chỉ học đến tiểu học. Cả hai làm việc trong một xưởng sản xuất chăn và cuối cùng họ mở một cửa hàng nhỏ.
Cha mẹ Li dành phần lớn thu nhập để cho 3 người con ăn học. Hồi cấp III Li học giỏi và sau đó đỗ vào Đại học Tứ Xuyên. Sau khi tốt nghiệp, anh tới làm việc cho xưởng giày của người quen ở Phúc Kiến. Li học cách kinh doanh ở đó.
Chúng tôi luôn nói chuyện bằng tiếng Trung nhưng Li đọc thạo tiếng Anh. Anh sử dụng VPN (mạng riêng ảo) để vượt tường lửa và tiếp cận các trang như Google Trends để nghiên cứu thị trường Mỹ.
"Đi được tới Mỹ thì tốt nhưng ta có thể học được rất nhiều từ mạng internet", Li nói. Anh mường tượng tới một số đặc tính của người Mỹ. "Tất nhiên ông có nhiều kinh nghiệm hơn nhưng tôi nghĩ rằng người Mỹ không mấy khi tiết kiệm", một lần Li nói với tôi sau khi đề cập tới chuyện doanh thu tăng do các khoản kích thích kinh tế, "Cứ có tiền là họ tiêu thôi".
Sau phản ứng chậm trễ ban đầu, chính phủ Trung Quốc đã đưa ra nhiều chính sách hiệu quả nhằm hạn chế sự lây lan của virus, nhưng có tương đối ít hỗ trợ kinh tế trực tiếp cho người dân.
Trong quý I năm 2020, kinh tế Trung Quốc giảm gần 7%, đây là lần đầu tiên chính phủ nước này công bố mức tăng trưởng âm kể từ thời Mao Trạch Đông. Dù vậy, chính phủ Trung Quốc không phân bổ các khoản kích thích kinh tế. "Chính phủ mà làm thế thì người dân cũng đem gửi ngân hàng hết", Li nói.
Thực tế thì nhiều người Mỹ cũng làm như vậy. Scott R. Baker, một nhà kinh tế học tại Đại học Tây Bắc (Mỹ), nói với tôi rằng: Đạo luật CARES thúc đẩy những mô hình chi tiêu khác với chương trình kích thích kinh tế năm 2001 và 2008.
"Khác biệt lớn là chi tiêu cho hàng tiêu dùng lâu bền (durable) bớt đi", Baker nói, "Người dân không mua ô tô hay tủ lạnh mới nữa. Có vẻ phần lớn số séc được đem đi tiết kiệm".
Cùng với 4 nhà kinh tế học khác, Baker đã phân tích dữ liệu giao dịch ngân hàng tần suất cao cho hơn 30.000 khách hàng. Họ kết luận rằng khoản kích thích năm 2020 không hiệu quả bằng những chương trình trước đó, một phần bởi bản chất đặc biệt của đại dịch - nó khiến khách hàng ngại tới chỗ bán ô tô hoặc nhận hàng từ người lạ.
"Nếu bạn có thể sử dụng tấm séc 1000 USD, chẳng hạn để mua ô tô thì nó sẽ đem lại ảnh hưởng lớn", Baker nói, "So với việc mua một đôi giày 30 USD từ nước ngoài - việc này không làm được gì nhiều cho nền kinh tế".
Tôi đã nói về doanh thu hậu kích thích kinh tế của Li Dewei. "Chuyện anh ấy thấy doanh thu tăng rõ không khiến tôi ngạc nhiên", Baker nói, "Chúng ta thấy phần lớn chi tiêu xảy ra trong khoảng tuần đầu tiên sau khi nhận séc".
Nhà kinh tế lưu ý rằng, mặc dù phần lớn người Mỹ có vẻ tiết kiệm séc kích thích kinh tế của mình, thì những người có ít tiền trong tài khoản ngân hàng hơn lại có khả năng chi tiêu cao hơn.
Những khách hàng này có xu hướng mua thực phẩm, hàng tiêu dùng không bền (non-durable) cũng như những món không đắt đỏ khác - và thường, những loại sản phẩm này được sản xuất bởi những nhà kinh doanh Trung Quốc như Li Dewei.
05.
"Giao lưu" trên Amazon
Ở Thành Đô, Li và nhân viên của anh ngày nào cũng lướt qua các đánh giá trên Amazon. Anh gọi những nhận xét ấy là một kiểu "giao lưu".
Hồi đầu đại dịch, nhiều nhà tiêu dùng Mỹ phàn nàn về tình trạng giao hàng chậm trễ. Ngày 6/5, một người mua đánh giá 1 sao cho một món đồ Li bán: "Hàng tới chậm, rồi bị ăn trộm khỏi hiên nhà tôi. Tôi muốn được hoàn tiền ngay lập tức".
Li hợp đồng với 1 đơn vị vận tải giá cao hơn và thực hiện các điều chỉnh khác. Khi nhiều khách hàng phàn nàn về mũi giày hẹp trong sản phẩm của Zocania, Li thay đổi ngay tại xưởng.
"Giao lưu" trên Amazon phần nào cho thấy cuộc sống thời đại dịch của những người Mỹ thu nhập thấp. Hiếm khi có bình luận nhắc tới các hoạt động thể chất hay thể thao, có vẻ nhiều khách hàng mua giày của Li để dùng trong những công việc cần phải đứng nhiều.
Ngày 16/5, một khách hàng đánh dấu 1 sao, vì "đế chống trượt": "Tôi là một đầu bếp ở Denny's và tôi suýt ngã dập mặt vì nước vương trên sàn bếp! Vô cùng đáng sợ!"
Có người thì đề cập tới công việc mà họ đã mất. Ngày 14/6, 5 sao: "Tôi mua để đi làm nhưng vừa biết tin chỗ làm sẽ không mở cửa trở lại, dù vậy tôi vẫn thích đôi giày".
Và khi mùa hè qua đi, dấu hiệu của sự căng thẳng xuất hiện. Ngày 13/7, 5 sao: "Đế không bền lâu. Tôi mới bị cảnh sát đuổi có hai lần trong lúc đi đôi giày này mà giờ đế đã mòn mất một nửa". Ngày 1/8, 1 sao: "Mua 2 đôi giày, không gửi trả vì đại dịch (thực sự sợ phải nhận hàng qua đường bưu điện)".
Li theo dõi tin tức ở Mỹ chặt chẽ và có vẻ lúc nào anh cũng biết số ca nhiễm bệnh là bao nhiêu. "2 triệu 6 trăm 50 nghìn", Li nói với tôi hôm 2/7 khi tôi hỏi thăm tình hình, "Mỗi ngày có thêm 30-40 nghìn ca. Đó không phải những con số khả quan".
Tuy nhiên, kể cả khi đại dịch diễn biến tồi tệ khắp Thái Bình Dương, Li vẫn để mắt tìm các cơ hội khác. Tháng 6, sau khi nghiên cứu trên Google Trends, Li nảy ra một ý tưởng. Anh thuê luật sư Mỹ đăng ký thêm một thương hiệu với Văn phòng Sáng chế và Nhãn hiệu Mỹ, có cái tên khó hiểu không kém những thương hiệu trước đây: Pemily 12.
Cuối tháng 1 năm ngoài, Đại sứ quán Mỹ và 5 lãnh sự quán ở Trung Quốc, bao gồm cả ở Thành Đô, đã quyết định sơ tán các nhân viên Mỹ không cần thiết, cùng gia đình của họ. Nhiều đại sứ quán và công ty nước ngoài khác trên khắp Trung Quốc có quyết định tương tự.
Vợ tôi, Leslie và tôi quyết định ở lại cùng 2 cô con gái sinh đôi. Các cháu hiện đang theo học 1 trường công lập ở Trung Quốc.
Quyết định của chúng tôi không liên quan gì tới việc đoán định xem nước nào có thể xử lý đại dịch tốt hơn. Chỉ là chúng tôi không nắm được mức độ nghiêm trọng của đại dịch và giai đoạn phong tỏa ở Thành Đô - kéo dài 1 tháng rưỡi - đã khiến chúng tôi kiệt sức.
Ở một thành phố hơn 16 triệu dân, chỉ có 134 ca bệnh có triệu chứng được ghi nhận tới cuối tháng 2. Sau đó, không còn trường hợp lây nhiễm nào trong cộng đồng nữa, cho tới hết mùa xuân. Thấy nguy cơ nhiễm bệnh không cao nên chúng tôi thấy mình chẳng có lý do gì để ra đi.
Cuối tháng 3, chính phủ Trung Quốc cấm tất cả những ai mang hộ chiếu nước ngoài nhập cảnh, kể cả khi họ có visa làm việc. Nhà chức trách tin rằng miễn là họ có thể cách ly một số tương đối ít công dân Trung Quốc quay trở về và duy trì xét nghiệm, truy vết khắp đất nước thì cuộc sống thường nhật có thể tiếp diễn với một số ít hạn chế.
Tới đầu tháng 5, cô con gái học lớp 3 của tôi quay trở lại trường học và trong vòng vài tuần, bọn trẻ được ngừng đeo khẩu trang. Thời điểm ấy, khi tôi bay nội địa lần đầu tiên kể từ khi phong tỏa, máy bay không một ghế trống.
Ban đầu, tôi tưởng rằng, ở Trung Quốc chúng tôi sẽ trải qua dịch bệnh trước và rồi phần còn lại của thế giới sẽ theo sau, từng bước một: bùng dịch, phong tỏa, phục hồi. Nhưng giờ có thể thấy rõ trải nghiệm của chúng ta đã chệch hướng tới mức nào, và một tháng rưỡi phong tỏa ở Thành Đô bắt đầu mờ dần trong tâm trí.
Tôi vẫn đi cắt tóc ngoài hiệu, và tất cả các nhà hàng ưa thích đều mở cửa trở lại hoàn toàn. Lý do duy nhất khiến chúng tôi phải kết nối video trực tuyến là để trao đổi với gia đình và bạn bè ở Mỹ, chủ yếu cho đỡ buồn.
Vào đầu tháng 5, một vài người bạn thời đại học của tôi tổ chức một cuộc gặp qua Zoom, trò chuyện về trải nghiệm phong tỏa ở Mỹ. Sau đó, tôi gấp máy tính và đạp xe xuyên thị trấn tới một hộp đêm. Hộp đêm kín người, trong số vài chục người đang nhảy nhót, chỉ có 1 người đeo khẩu trang.
(*) Trên đây là kỳ I trong phần lược dịch bài viết của tác gia Peter Hessler phân tích về quan hệ Mỹ-Trung Quốc vào thời kỳ đại dịch. Mời quý độc giả đón đọc tiếp kỳ II.
Thi Anh
Doanh nghiệp tiếp thị