Sớm mai này những chiếc lá bàng đốt cháy con đường lên ngọn đồi, người sẽ nhặt lấy chiếc lá rách che miệng, chim bay trên sông xanh, từ ý niệm đó, dần trở lại với mùi đất ẩm nơi dốc dựng. Ở giữa ngọn đồi, người trông thấy hình ảnh của tượng, bức tượng ẩn sau lùm bông trang màu vàng.
Không một bí mật nào ở đây cả, người muốn tìm về dĩ vãng ở đây được sao, khi người đã là vết hằn của thời gian, mà thời gian có chăng là ảo ảnh của mặt trời. Chiều năm nào người đã nghe ra tiếng bước chân của mình, những sợi tóc của mình, đã thấy những người khác đang mò vào cái khoảng thời gian hoá đá.
Dòng ý thức cuốn trôi sạch mọi điềm tư vãn, dưới con đường dài, không có ngôi nhà nào cả, chỉ có một căn hầm dưới mặt đất, nơi đó người tự do ngồi nhìn thời gian qua kẽ hở, gọi người thuộc trường phái nào, cũng đều vô nghĩa, người chỉ thích ra khỏi căn hầm vào lúc nửa đêm, ngồi dưới những rặng phi lao, thao thức, người thấy giấc mơ đương đại của mình như nhà leo núi, càng lên cao càng chịu nhiều áp lực, không khí loãng và lạnh, người cất tiếng nói, chỉ vách núi nghe, hoặc là tiếng lòng thôi còn nghi hoặc.
Ở giữa miền sơn cước này, chỗ người ở, chim chóc đến hót vào buổi sáng, hoa nở vào buổi trưa, và tiếng suối chảy vào buổi tối. Sơn trùm thủy bọc, đêm nào có trăng thì có tiếng dơi bay về, người vẽ con ong vú lá lên vách cửa, cánh cửa đá, không cần dùng thần chú hay phép màu, cửa đá của những người mặc áo nâu sồng để lại. Họ đã rời khỏi nơi đây khi rừng thông đã rụng hết quả, hiện thực như thế, và chẳng bao giờ trong nơi chốn này, hiện thực có thể tồn tại lâu bền, vì rằng, mỗi một cử động, rơi rụng, là một sự mơ mộng.
Minh họa: Hà Trí Hiếu |
Sau những gót chân còn sót lại những ổ nước, thông non mọc lên, lá xanh, bầy chim non cũng vừa mở mắt, lũ kiến cũng vừa xây xong cái tổ lá, người ra suối, cởi trần, người thấy dễ chịu hơn. Lớp mỡ loang ra khắp mặt nước, người nghĩ rằng sẽ góp nhặt xương của những vật chết, rồi lắp ghép lại như cách thượng đế đã lắp ghép nên hình hài của thế giới: “Người hãy làm điều đó trước khi mọi mơ mộng bị nhấn chìm trong dấu chân của thời gian”.
Tiếng nói từ bộ não phát ra, người hiểu bộ não của người có trăm tiếng nói, tiếng nói nào đã kêu gọi người làm cái công việc mà không một người nào khác có thể xen vào. Não của người không còn hình dung nổi, phía trái, phía phải, đằng sau, đằng trước, mặt trời mọc cũng lạ lùng như thế.
Đến nỗi, ngay cả bàn chân, ngón cái ngón giữa, ngón áp út, ngón út, ngón áp trỏ, chân trái, tay phải, chúng luôn hoán đổi vị trí cho nhau. Vậy là, phải trải qua thêm triệu năm nữa, người mới đủ sức để biện biệt sắp đặt lại trật tự của bản thể, như vậy hiện thực đã không còn chi phối, trái tim của người, người yêu ai, tình yêu đó đã ngự trong da thịt, hay là ngự ngoài kia những vùng lá sáng của linh hồn.
Trăng lên, người leo lên ngọn cây, cây già, hàng trăm tổ chim được gầy dựng trong vòng một ngày. Lũ chim bay đến đậu trên vai người, người không để tâm cho lắm, phía bên kia đại dương mông mênh nước, người đã thấy một khoảng không gian chìm ngập trong khói sương.
Như vậy, từ khi người rời khỏi hầm, người leo lên cây già, người phát hiện ra cái không gian khói sương. Sự tồn tại của người, cái tư duy về biên giới giờ mất hẳn, người mưu đồ về cái khung xương, những chiếc xương lớn bị sóng đánh dạt vào bờ biển, những người áo nâu sồng đã đi biệt, người đến đây sau những biến cố của những ý niệm.
Người ngủ trên cây già, thì bọn chim đã đẻ trứng, trứng nở, chim non tập bay, chúng lại làm tổ, và như thế người đã ngủ một giấc sâu mà không còn nhớ là đã nằm ngủ trên cây. Lũ chim mang trái chín thả vào miệng người, người ngồi dậy nói lời cảm ơn. Người được lũ chim chăm sóc khi người nằm ngủ, chúng gắp lá phủ lên người khi trời rét, mang nước rưới lên người khi trời nóng, thay nhau cất tiếng hót mỗi khi người cử động.
Ngày mặt trăng tròn, người mở mắt, bước xuống mặt đất, người đi ra khỏi nơi chốn này, rồi đào lấy một con đường dẫn nước từ đại dương vào bên trong. Công việc này chỉ mất hai tháng, lũ voi đã tìm tới người, dù rằng người chẳng phải tướng quân hay một vị thần, dường như công việc này không phải do người lựa chọn, mà là bộ não người lựa chọn, nghe có vẻ phi lý, từ khi người phát ra tín hiệu, thì ngay cả bọn sư tử cũng lần về nơi này để giúp người lắp ghép những bộ xương từ những vật chết.
Như thế, cả một vùng sơn trùm thủy bọc này, muôn thú bỗng tìm về, lạ lẫm thay, người chỉ đứng yên trên cây già và ngày cũng như đêm, người dùng những cành cây khô, đem bện lại, theo những gì mà bộ não nghĩ ra, những con voi rống lên, rồi đào đất, những con vượn thì dọn dẹp một bãi đất đủ rộng để cho người thực hiện cái ý niệm của mình, và như vậy một cộng đồng giữa các loài vật được hình thành.
*
Khung xương được lắp ghép cẩn thận, đến nỗi, niên đại mặt trời cũng chẳng dịch chuyển nổi khung xương to lớn này, nơi này sẽ là nơi lũ vượn sinh sản, loài voi sẽ đến nằm nghe những câu chuyện của bầy sóc. Cho đến khi người trở lại với cái hầm của mình, cánh cửa đá tự mở và tự khép.
Mỗi ngày bầy sư tử thường đến nằm ngửi hương hoa, thường rắc lông cho người cột lại làm cọ vẽ, người vẽ không nhiều, có khi người ngồi im lặng, người vẽ khuôn mặt của người nữ, người nữ đang ngồi cho con bú, đứa con mỉm môi cười, phía dưới những cây thông, mưa rơi nhanh hơn thời gian, thời gian bị tháo ra, chúng thành những thực thể sống động.
Người nữ cho con bú xong, người nữ ra biển rửa sạch đôi chân đông máu, người nữ bới tóc lên cao, mùa đông nắng ấm dần.
Người nữ lau khô những vệt màu còn ướt trên cọ, người nữ nói rằng, sẽ tiếp tục sinh con và nuôi nấng chúng cho đến khi rừng thông ra quả, và những người mặc áo nâu sồng trở lại hang động.
Người chọn cho mình chiếc áo đẹp nhất, rồi bảo người nữ hãy chờ đợi người quay về tối nay.
Người bước ra ngoài trời sao sáng, như vậy lũ dơi cũng đã hội về đông đúc, chúng treo lửng lơ dưới tán cây già và hát lên mê hoặc. Người cho chúng một vài ân huệ, nghĩa là lũ vượn sẽ chia sớt một ít chuối rừng, một ít sữa trâu để lũ dơi hát lên mê hoặc như thế.
Miệng giếng rộng bằng mười bước chân voi, thì lũ ếch nhái tha hồ mà bơi lội. Chúng rền vang cả đêm, cái giếng lại có nhiều thứ hay ho, đêm nay, sợi dây mây đưa người trục xuống giếng, người lặn xuống đáy, rồi đi qua một cái ngõ đầy xương cá.
Người nữ chờ đợi người về, đêm hôm khuya khoắt, người nữ thổi nến, rồi đóng cửa đá nằm ngủ, màu cọ khô lại, người nữ đã ngủ dưới căn hầm mùa đông.
*
Nụ hôn, nơi môi người nữ và người là thứ ánh sáng, loé lên sau bình minh của thảo nguyên, người chấm thêm nét cọ lên tấm Canvas, tỉ mỉ, và thực lặng lẽ. Người nghĩ những giây phút nối tiếp nhau trong sự sáng suốt sẽ làm những thứ cuồng điên hốt hoảng tan biến, nó hình thành nên tính nết của từng nhát cọ.
Từ khi người vẽ, người tỉnh táo hơn, sự tỉnh táo giúp trí năng của người chảy ra thứ sáp màu nguyên chất.
Người vẽ con cá lớn, con cá lớn đang bơi trong cái giếng, và người có lần thử nghĩ về đại dương bên kia hang động: “Thực ra cũng chỉ là thứ nước quen thuộc mà ta đã nhìn thấy được từ cái hôm ta phát ra ý niệm lắp ghép cái khung Xương Sống và dẫn nước từ đại dương bên ngoài mảnh đất này, và đại dương bên ngoài hang động trong cái giếng cũng là một khối tiếp nối với đại dương mà ta quan sát được trên cây già”.
Từ khi người lặn xuống đáy giếng và đặt dấu chân đầu tiên lên hang động, người bị mắc chứng dị ứng với ánh sáng: “Ánh sáng đã gọi tên người”.
Cho nên, vào lúc người đến, ánh sáng ăn mòn từng tế bào trong cơ thể người.
“Cơ thể người là những tiếng nói của vũ trụ, mà vũ trụ thì luôn có những mặt nổi mặt chìm lênh đênh theo từng hình khối”. Trong mỗi hình khối lại dịch chuyển, biến đổi không ngừng nghỉ. Hình khối làm ra thể dạng. Thể dạng này cộng hưởng với thể dạng khác.
Ban đầu, hang động trong sự biến thể ấy, người thấy những hạt nhỏ, rồi từng đường nét chuyển động khắc lên vách động, hạt nhỏ nảy mầm, mọc ra từng cọng rêu. Lòng giếng rộng và sâu, ngập lên vùng sáng trong mắt người, người nghĩ về tổ tiên, có lẽ người đã không còn lưu giữ gì nhiều trong kí ức, hoặc có tưởng tượng ra cách thức người được sinh ra, thì cũng không làm nguôi thứ ánh sáng đang làm người choáng ngợp.
Người ngậm một nhánh dương xỉ, nhánh cây học thuộc bài mà người nghĩ sẽ giúp người học thuộc từng ngõ ngách tâm hồn mà người được phép đi xuyên qua. Người lặn xuống đáy giếng, thứ ánh sáng của lòng đất luôn đầy ắp trong nước, như vậy trong dày đặc những sinh vật sống, những nguồn năng lượng phát ra thứ ánh sáng ảo diệu, người mang nó trôi dạt qua một đường hầm bí mật trong lòng giếng. “Hãy cất tiếng nói, ngay ở đây, và vào lúc này”, người nghe ra từ mạch đá ong những âm thanh như thế.
Con cá lớn dẫn người bơi trong lòng giếng, rồi nó lóc lên hang động tan biến thành từng hạt năng lượng, người thấy tất cả như một giấc ngủ dài, và sự mơ mộng trong lúc người đứng ngắm nhìn những sinh vật đang sinh sôi trong hang động, nơi đây người thấy thời gian trôi chậm lại trong cái không gian đầy ẩm ướt.
Con cá lớn, hễ ăn thịt nó, thì người sẽ câm tiếng, và chỉ khi người gặp được tổ tiên mình thì khi đó giọng nói sẽ trở lại trong nhịp đập của trái tim.
Vậy trái tim người chứa những gì? Người thật vô tư khi không còn để ý đến những câu hỏi từ bán cầu não trái. Nơi đây trông thật giống như một buồng chuối, đang cong oằn mang cái buồng chuối khổng lồ, mà không có sự nguy hiểm nào, cái bẫy nào dựng sẵn. Người nghĩ, lúc mới nở ra trái, trái chuối non đều quy hướng về khuôn mặt mẹ chuối, đến khi trái chín vẫn giữ nguyên vẻ âu yếm, hồi nhớ như vậy, cho nên vì lẽ đó người đặt tên cho cái hang động này là hang Mẫu Tử.
Người cầm trên tay một ngọn đuốc, ngọn đuốc do bọn đom đóm đậu vào, và chúng run cánh, chúng run cánh và phát ra tiếng kêu, tiếng kêu và ánh sáng, người đã từng thấy những ngọn tháp đêm cũng từng được thắp sáng như thế, người nói rằng: “Bởi người không ăn thịt con cá lớn, nên người còn cất lên được tiếng nói của bầy đom đóm”, người đã nhìn thấy những gì? Núi lửa ư, bão tuyết ư?
Từng sinh vật ở đây đã sống hằng triệu năm, người nghĩ, thời gian ở đây không còn tồn tại, vì từ lúc đến nơi này, người không còn cảm nhận được bông hoa đang nở hoặc lụi tàn, không còn thấy cơ thể mình đang dần mai một đi.
Từng ngõ ngách đang sống, sống! đó là thứ duy nhất mà người cảm nhận rõ nhất.
Người thấy thực vật hút lấy nước, và thải ra nước, hút lấy và thải ra thứ nước chứa đầy ánh sáng, ánh sáng nước lại chui vào lá, và cứ thế hàng triệu năm chẳng có gì ngoài những gì đang xảy ra, như vậy thời gian có chăng chỉ là ánh sáng, thứ ánh sáng của cỏ cây, của hơi thở hang động.
Người không đi tìm cội rễ, tổ tiên, người đi đến đây và tiếp tục trừu tượng về thế giới.
Người nữ đang giặt chiếc váy lá, từng ngón tay mềm mại vo từng chiếc lá, mỗi chiếc lá là mỗi hơi thở của người nữ, người nữ đã sinh ra nhiều con, những người con rất kháu khỉnh, khuôn mặt như màu nước của đại dương, như lá rừng xanh mát.
Đàn voi đã mang trái cây đến dâng cho người nữ, người nữ nhận lấy và nàng đọc một khúc kinh của hang động, khúc kinh trong bản kinh Mẫu Tử:
“Này ân huệ từ cây cỏ/ này đàn voi trắng/ có người mặc áo nâu sồng đã rời bỏ chốn này/ trước sự hiện diện của bầu trời xanh thẳm kia/ rừng thông đêm ngày cất lên tiếng nói âm nhạc kia/ và những người anh em từ mười phương gửi về những chùm nho dại ngọt ngào/ người từ lòng hang động trở về/ nghe ra trong gió đang tha thiết kể/ về phương Bắc những dòng sông đang cạn nước/ về phương Nam những ngọn đồi đang cụt đầu,/ về phương Tây đang thiếu bóng mát và lương thực/ về phương Đông những trầm tích đang tróc gốc”.
Người nữ đã đẻ thêm một người con nữa, cứ thế, người nghĩ sẽ bắt tay vào việc tái chế lại miền đất này thành nơi cho tất cả mọi sự sống.
*
Người nữ soi mặt vào sương, nghe thoảng ngoài khuya tiếng con chim gõ kiến mổ vào cây thông, hồn lắng lại dưới ánh trăng huyền nhiệm, như có ai đó đã gõ vào nhận thức những lời của tháp đền.
Khi sống hoà cùng đất trời, thấy mình là chim đang bay, là cá đang lội, là lá rừng rụng xuống và nước chảy trong khuya khoắt vẫn không ngưng nghĩ rằng cuộc tương tục sẽ kéo dài cho đến khi thiên nhiên trở thành cái đạo hằng dưỡng bảo mật kí ức, cho những sự dịch chuyển về sau. Khi ấy tâm trí bóc hạt đâm chồi và vươn lên hít thở khí trời, đó là khoảnh khắc cho một đời sống mới.
Hôm cây rừng im lặng, con sư tử mắt chột tìm về bên người để lắng nghe sự an ủi: “Mày đau lắm phải không, đang hùng mạnh giờ trở nên yếu ớt sau khi bị dính mũi tên của những người thợ săn”. Những người thợ săn chỉ đuổi đến bìa rừng và không đuổi theo nữa, vì lẽ những người thợ săn sau khi đuổi đến con nước lớn dẫn nước từ đại dương vào rừng, những người thợ săn như những kẻ bị thần linh đoạt hồn. Những người thợ săn kinh động vì vẻ trầm mặc, thâm u, yên tĩnh đến lạ kì, những người thợ săn nghe ra được hơi thở hỗn độn của mình.
Những người thợ săn quỳ xuống trước khu rừng thông, ông lão xuất hiện, bảo rằng: “Nơi này không phải là nơi các ngươi đến, hãy lui về thế giới của các ngươi, khi nào các ngươi hiểu ra rằng, thiên nhiên là tôn giáo, con người đang tâm linh về thiên nhiên, người không cần triết lý, như cách thức để sống mở lòng với bao la, thì hãy trở lại gặp ta”.
Ông lão xuất hiện trên cội cây già, và nhìn muôn thú đứng dưới trăng, ông lão nói với người rằng: “Người có chết không?”. “Tôn giáo thiên nhiên không có sự chết, gọi là chuyển tiếp, là đi vào sự hằng có”, người nghĩ người đã tạo ra tiếng nói riêng, người vẫn cưu mang tiếng nói của tổ tiên, tổ tiên cư trú trong tiếng nói hay tiếng nói cư trú dưới mỗi địa hạt dòng giống, người đang làm nghi lễ trên cây già.
Và rừng thông toả đầy ánh sáng lúc chồi non vươn lên khỏi lớp lá mùa đông, lũ sóc tắm ánh nắng ban mai dưới những quả thông non.
Những phút giây đầy nhạc tính, người nghe bên kia rừng thông tiếng vỏ ốc trên đại dương từ triệu năm vọng về lời của thủy triều. Người nghe trong lòng đất những bộ xương đang máy động, những hạt natri, hiđro, carbon, những sắc màu trộn lẫn vào cây cỏ.
Từ khi người bị ánh sáng ăn mòn, người chỉ ra khỏi căn hầm vào trước lúc bình minh để đứng trên ngọn cây già và ngẫm ngợi về dòng chảy của sự sống, rồi lại quay về trước khi mặt trời lên.
Cửa hầm vẫn mở, chất liệu người vẽ tranh hoàn toàn bằng trí năng, người nữ choàng chiếc áo nàng mới dệt lên thân thể của người, người nhìn người nữ và nói: “Ta và nàng có với nhau thật nhiều những người con trai, nay ta phải trở lại hang động để tránh ánh sáng trên mặt đất, ta đang bị ánh sáng mặt đất ăn mòn, sớm mai này, khi nàng đi nhặt lá kết áo, nàng hãy xoá giúp ta những nét cọ, mỗi một nét cọ là mỗi người con sẽ ở lại với nàng”.
Người nữ mắt buồn, vì biết người đang lâm trọng bệnh, nên người nữ đã dệt cho người chiếc áo đẹp nhất, đặt một nụ hôn, như lúc đầu tiên gặp người trên cánh đồng lúa nước.
Người trở lại hang động, hang động đã chia nhánh. Trong vỏ não người giờ là những ánh mắt đáy thẳm. Người nghĩ về những con sóng, những vết xăm da. Người không chịu được ánh sáng trên mặt đất, lưng người nổi vảy, những chiếc vảy xanh dương.
Tay và chân mọc móng vuốt, những móng vuốt đen tuyền. Mắt người mở tròn, to và chứa đầy nước. Trán người gân sưng tấy, nổi sần. Đầu người mọc sừng, và lục phủ ngũ tạng người bỗng dài ra, hơi thở nóng bức như lửa phún thạch, còn kí ức người giờ là những rạng san hô, những con cá biết hát.
Người ngồi xuống, và cuống họng phát ra tiếng gầm lớn, tiếng gầm làm hang động rung chuyển, và sóng ngoài đại dương dâng lên tung toé. Hai tai của người nở ra như hai cái mang cá, và người bắt đầu dịch chuyển. Người không còn cảm được hai chân còn chạm mặt đất. Người bay qua hang động, bay như viên đạn trong tốc độ của ánh sáng kỉ Chu La.
Người nữ trở về căn hầm, người nữ biết rằng mình sắp phải xa những đứa con đang lột xác thành những hình dạng biết bay, người nữ lấy cọ, cố xoá những chi tiết trên người những đứa con, nhưng người nữ chỉ xoá được một nửa, nửa đàn con còn lại bay ra khỏi căn hầm. Chúng bay quanh bộ Xương Sống và gầm lên, làm thức giấc đàn chim trên cây già, rồi chúng chui xuống giếng, bay qua hang động, nơi chúng sẽ gặp người.
*
Dưới dáng vẻ gầy gò, khuôn mặt nhiều nếp nhăn chồng lên, tay cầm cây gậy trúc, thì đất đai trở hạ, những vàng hoa nở trên đọt ngọn chè, lũ chim cu gù mái trong tích tắc đã bày trên trảng cỏ những điệu xoè cánh. Ông lão mặc áo vải cùng đoàn người hành khất đã trở lại khu rừng, trước những sự thay đổi đến kinh ngạc sau một thời gian dài họ quay lại.
Như có một điều gì đó làm cả đoàn người hành khất phải dừng lại và đưa mắt nhìn quanh. Không chỉ sự có mặt của đoàn người hành khất, mà những dấu vết còn lưu lại trên tán cây già, vảy huyết xà khô lại, như có cuộc lột xác trong cái không gian tịch mịch, hạ đã tràn qua từng hố ngăn giữa những cội rễ.
Đôi mắt trầm tư thật gần với cơn gió phớt qua từng giọt sương đẫm ướt, ông lão vốc từng giọt huyết lệ trên tay: “Cuộc khảo cổ đã xảy ra ở đây”.
Nỗi buồn bã làm ông lão đứng yên trong dáng vẻ cô đơn triệu năm, cái dáng vẻ của tiên tri về sinh mệnh của rẫy đầy những uẩn khúc, có thể là những vết tích chưa được giải mã trên chính mảnh đất này. Những ngọn thông reo, bộ Xương Sống hiện ra trước mắt đoàn người hành khất: “Con quạ đã nằm mơ thấy dòng giống của nó đập cánh bay ra khỏi sự chết chóc của thế giới đã ban cho chúng”.
Nghe từ trên trời cao những đám mây bắt đầu làm cuộc gió mưa, và những ân oán một lần nữa làm cuộc xê dịch, làm đau buốt những tâm não của loài người. Trong tiếng réo rắt của đá sỏi, của sử tích, người đã về lòng đại dương trầm mặc, hùng âm sóng vỗ bao nhiêu bờ bến nhân gian: “Này các vị mặc áo nâu sồng, các vị đã trở lại bờ bến nhân gian này, sau khi những lở lói từ mẹ thiên nhiên đã làm các vị phải khổ tâm”- ông lão nói.
Nghĩ người là đất đai là cương thổ, của nơi chôn nhau cắt rốn, nơi tuổi thơ rình con chim làm tổ, đi ăn, theo dõi thời tiết và những chồi lúa mọc lên kì diệu. Người là thực thể và cũng là phi thực thể, nói thế để cân phân giữa thể xác và tâm hồn. Người thực thể là đẻ được, yêu được, sinh sôi và làm ra cách thức tồn tại của giống nòi.
Con người phi thực thể là giống chim bay, rồng lặn, là quốc hồn quốc túy, mỗi khi người lận đận cơ cực, là nỗi đau ẩn náu trăm triệu năm gốc rễ, là một sớm thổi hồn vào cây lúa, vào bầu sữa mẹ, là thế, là thế. Ông lão cắt nghĩa cho dễ hiểu thôi, chứ hễ chạm vào cái quốc hồn, quốc túy là cứ y như cái miền cố thổ lại hiện lên trong vô vàn ảo ảnh, không đầu không cuối.
*
Tôi trở về vườn mẹ trong ngày lập đông.
“Con về đó phải không con”. “Dạ, con đây ạ, con về trong gió sáng nay, lá rơi đầy ngõ, mẹ biết con về phải không ạ”. “Đúng rồi, mẹ đã không cho bọn chim tha lá, mẹ dặn bọn chim sáng nay ra suối múc nước về tưới gốc cây để chờ con về”. “Nhưng mẹ ơi, lần này về con ở luôn trong vườn mẹ nhé”.
“Sao vậy con, sao lúc trước con bảo con không ở nữa”. “Lúc trước con tin sẽ còn nhiều chỗ trú ngụ, nay linh hồn nhiều phương mất hết chỗ ở, cây trái bị chặt hết”. “Vậy nhà ta có cây bời lời, mẹ sẽ thắp nhang cho con ở đó nhé, ở đó mẹ sẽ trồng thêm cây mít, cây mận, cây khế, để lũ chim cu lửa, chào mào, trồng thêm hàng cau để con nhìn lũ chiền chiện tước lá cau làm tổ”. “Nhưng mẹ ơi, các anh của con giờ ở đâu hả mẹ?”.
Khuôn mặt mẹ tôi lúc đó cúi xuống đất, nước mắt chảy dài, vì các anh của tôi đã hồn xiêu phách tán từ lâu, các anh tôi là những người thợ xẻ gỗ khéo tay nhất, và các anh, trong một đêm mưa bão giữa rừng đã bị dòng lũ dữ cuốn trôi…
“Mẹ ơi, mẹ nhớ thắp nhang cho các anh nữa nhé”. “Các anh con có về nữa đâu mà thắp, tụi nó đã làm da thịt mẹ sưng tấy lên, đuổi bắt giết các loài sống trên da của mẹ, đốt lớp tế bào trên da mẹ, những khu rừng cổ thụ bị cưa xẻ, các anh con bán gỗ, xây nhà, lập công ty, giàu lên nhờ buôn bán thịt của mẹ, con số đó ngày càng tăng lên, rồi lại tiếp tục mua quan bán chức, đến nỗi nhân tính không còn nữa, mẹ đã khuyên nhưng các anh con điên cuồng, mẹ đành khóc thành những cơn lũ, đâu ngờ các anh con phá hết lối rẽ lệ của mẹ, nên bị dòng nước mắt mẹ cuốn trôi, làm cho hồn xiêu phách tán, cuối cùng tàn rụi ngay trên da thịt của mẹ”.
"Mẹ không muốn các con phải đổ máu, vì mẹ là đất, các con sinh ra từ lòng mẹ, các con lớn khôn và bước đi trên thân thể của mẹ, mỗi khi các con tranh nhau từng miếng thịt của mẹ, các con đâu biết rằng mẹ đã khóc và đã khóc như thế nghìn năm nay, cha của các con trên cao, cũng đổ lệ thành suối thành khe, vậy mà cuộc tương tàn vẫn mãi nghìn năm như thế".
"Mẹ cho các con cây trái, chim thú đủ đầy, vậy mà các con truy cùng giết tận, đến nỗi cha của các con trên cao cũng phải lâm bệnh trầm trọng, mưa nắng không đúng mùa, các con nghĩ lại, có phải cha mẹ không cho các con của cải vật chất, không cho kiến thức để sống và phát triển tinh thần, cha mẹ đã cho tất cả, vậy mà các con vẫn tương tàn". "Và cuối cùng, các con tàn rụi vào lòng mẹ, những tàn rụi buồn bã, mẹ phải ôm xác các con vào lòng, dưới vầng trăng u buồn của những năm tháng đảo điên…".
Tôi là linh hồn trôi dạt, tôi trở về làng sau nhiều năm xa cách như thế, lần gặp ông lão và đoàn người hành khất, tôi ý thức được sự quan trọng của thiên nhiên, thiên nhiên là xưởng vẽ lớn nhất của những họa sĩ tâm hồn, là nơi tái chế lại sự sống, của rừng, của biển, vì tôi cũng là đất, hiền từ, và tôi cũng là sông, chảy vào lòng biển cả vô cùng…
Truyện ngắn của Trần Quốc ToànXem thêm: /703836-caig-hnil-auM/neyurT/nv.moc.dnac.acnv