Chiến lược friend-shoring (sản xuất tại các quốc gia bằng hữu) là sự chuyển hướng từ quá trình toàn cầu hóa kinh tế trong vài thập kỷ gần đây. Mỹ và các đồng minh ở châu Âu, châu Á và Thái Bình Dương đang thúc đẩy việc sản xuất và kinh doanh hàng thiết yếu tại các quốc gia thân thiện. Các công ty như Samsung Electronics và Gap đã theo đuổi xu hướng này sau một loạt gián đoạn như Covid-19, xung đột tại Ukraine và cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung.
Những người ủng hộ friend-shoring coi đây là cơ hội cải tiến chuỗi cung ứng toàn cầu, nhằm giảm bớt sự phụ thuộc vào những quốc gia nhiều rủi ro, như Nga hay Trung Quốc. Họ nói rằng đây là sự kết hợp giữa toàn cầu hóa và cô lập, giữa sản xuất ở nước ngoài và sản xuất nội địa.
"Tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động friend-shoring sẽ giảm rủi ro cho nền kinh tế của chúng ta, cũng như cho các đối tác thương mại đáng tin cậy", Bộ trưởng Tài chính Mỹ Janet Yellen phát biểu tháng trước. Bà cho rằng những thỏa thuận như vậy sẽ giúp Mỹ thắt chặt mối quan hệ với các quốc gia có chung "chuẩn mực và giá trị về cách vận hành trong nền kinh tế toàn cầu".
Xu hướng này thể hiện rõ nhất trong các ngành như chất bán dẫn và đất hiếm. Các công ty tư nhân cũng đang nhập cuộc, chuyển sang sản xuất ở các quốc gia mà họ cho là rủi ro chính trị và logistics tương đối thấp.
Một số nhà kinh tế lo ngại xu hướng này sẽ gây tổn hại cho các quốc gia cả giàu lẫn nghèo - vốn hưởng lợi từ hệ thống thương mại toàn cầu cởi mở trong những thập kỷ gần đây. Pierre-Olivier Gourinchas - kinh tế trưởng của Quỹ Tiền tệ Quốc tế cho biết: "Thế giới sẽ phân chia thành các khối, không giao thương nhiều với nhau và có các tiêu chuẩn khác nhau. Đó sẽ là thảm họa cho kinh tế toàn cầu".
Những người hoài nghi về thương mại tự do thì nói rằng "friend-shoring" chỉ là một thuật ngữ ngụy trang cho hoạt động sản xuất ở nước ngoài, thay vì đẩy mạnh sản xuất trong nước để đảm bảo chuỗi cung ứng tốt hơn và tạo ra việc làm cho người Mỹ. Jamieson Greer - cựu chánh văn phòng của Văn phòng Đại diện Thương mại Mỹ thời cựu Tổng thống Donald Trump, nói: "Friend-shoring giống như toàn cầu hóa không hoàn chỉnh. Cách tiếp cận đó sẽ không thành công nếu không nhận được ủng hộ rộng rãi trong nước".
Bên cạnh đó, các nhà kinh tế nói rằng dịch chuyển sản xuất ra khỏi Trung Quốc cũng có khả năng tăng lạm phát.
Dù vậy, căng thẳng với Trung Quốc vài năm gần đây đã khuyến khích các chính phủ và công ty theo đuổi đa dạng hóa và dịch chuyển sản xuất khỏi nước này. Covid-19 càng cho thấy sự mong manh của chuỗi cung ứng và thúc đẩy xu hướng này. Sự cấp thiết tăng lên sau khi xung đột Nga – Ukraine nổ ra, khiến việc xuất khẩu năng lượng và thực phẩm giảm sút. Các lệnh trừng phạt Nga còn làm gián đoạn dòng chảy tiền tệ và hàng hóa toàn cầu.
"Chắc hẳn bạn từng nghe câu nói các quốc gia buôn bán với nhau không gây chiến với nhau. Nhưng trong hai tháng qua, chúng ta nhận thấy điều đó không phải luôn đúng", Đại diện Thương mại Mỹ Katherine Tai bình luận. Bà cho biết cần phải đa dạng hóa nguồn cung các mặt hàng chủ lực "để đảm bảo chúng ta không hoảng sợ và tuyệt vọng trong lần khủng hoảng tiếp theo".
Để giảm bớt sự phụ thuộc quá lớn vào Trung Quốc với các khoáng sản quan trọng, Mỹ và Australia đang làm việc cùng nhau để xây dựng các cơ sở khai thác và chế biến đất hiếm ở cả hai quốc gia. Theo báo cáo chuỗi cung ứng của Nhà Trắng tháng trước, Trung Quốc hiện tinh chế 60% lithium và 80% coban, hai khoáng sản quan trọng cho pin dung lượng cao.
Sau cuộc họp với các quan chức Australia và các giám đốc doanh nghiệp tại Washington gần đây, Bộ trưởng Thương mại Mỹ Gina Raimondo cho biết Mỹ sẽ cung cấp nguồn tài chính và hỗ trợ pháp lý cần thiết cho việc này.
Mỹ và Liên minh châu Âu cũng đang xem xét kế hoạch chi hàng chục tỷ USD để giúp các công ty như Intel xây dựng nhà máy sản xuất chất bán dẫn tiên tiến. Năm 2021, 92% nguồn cung chất bán dẫn tiên tiến trên thế giới đến từ Taiwan Semiconductor Manufacturing Co. (TSMC)
Một số doanh nghiệp đã đi trước các nhà hoạch định chính sách với xu hướng friend-shoring. Trong những năm gần đây, các công ty đối mặt với tắc nghẽn do đại dịch, khiến thời gian và chi phí vận chuyển từ châu Á tăng vọt.
Với các doanh nghiệp may mặc, điểm đến ưa thích là các quốc gia Trung Mỹ như Honduras, Guatemala và El Salvador. Gap thì đang tăng gấp đôi thị phần của khu vực này trong sản xuất toàn cầu, dự kiến lên 10% trong năm tới và thậm chí có ý định nâng lên mức 25%.
Dù chất lượng vải và nguồn lao động trong khu vực chưa thể bằng Trung Quốc, các công ty lại hưởng lợi từ việc nằm gần người tiêu dùng Mỹ, cũng như mức thuế thấp hơn theo hiệp định thương mại tự do. Chính quyền Biden cũng đang chi hàng tỷ USD nhằm phát triển kinh tế địa phương và thu hút đầu tư của khu vực tư nhân trong khu vực. Đây là bước đi mà các quan chức hy vọng sẽ giúp giảm thiểu người di cư sang Mỹ.
Nằm trong nhóm hưởng lợi là các công ty như Intradeco Holdings (Miami, Mỹ) - sản xuất quần áo ở El Salvador cho các nhà bán lẻ như Walmart và Amazon. Giám đốc Intradec Felix Siman cho biết kể từ mùa xuân năm 2021, công ty của ông đã có thêm 4-5 khách hàng mới, bao gồm PVH - công ty mẹ của Calvin Klein. Ông cho biết doanh thu của Intradeco trong năm nay sẽ cao hơn 20% so với trước đại dịch.
"Các công ty không muốn sản xuất mọi thứ ở Trung Quốc nữa", Siman nói, "Khu vực này đang nhận được sự quan tâm rất lớn. Hiện nhu cầu lớn hơn nhiều so với những gì chúng tôi có thể đáp ứng".
Ngọc Thanh (theo Wall Street Journal)