Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) vừa có văn bản trả lời công văn số 2159/BCT-TTTN của Bộ Công Thương về việc đề nghị góp ý đề nghị xây dựng Nghị định bãi bỏ Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 quy định chi tiết Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện (sau đây gọi tắt là Dự thảo).
"Việc xây dựng ban hành Nghị định bãi bỏ Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 quy định chi tiết Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện là hợp lý và cần thiết", VCCI nhận định.
Lý giải về nhận định, VCCI biết, Điều 25 Luật Thương mại 2005 trao quyền cho Chính phủ quy định về Danh mục hàng hóa cấm kinh doanh, hàng hóa hạn chế kinh doanh, hàng hóa kinh doanh có điều kiện và điều kiện để được kinh doanh hàng hóa đó. Nghị định 59/2006/NĐ-CP hướng dẫn Điều này của Luật Thương mại 2005.
Các quy định tại Nghị định 59/2006/NĐ-CP có tính chất hạn chế quyền của công dân. Điều này là chưa phù hợp với quy định tại Hiến pháp 2013 và Bộ luật dân sự 2015.
Cụ thể, khoản 2 Điều 14 Hiến pháp 2013 quy định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.”, khoản 2 Điều 2 Bộ luật dân sự 2015 quy định “Quyền dân sự chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.”.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 119 Hiến pháp 2013, khoản 3 Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015, quy định về thẩm quyền quy định về hạn chế quyền của công dân sẽ áp dụng theo quy định tại Hiến pháp 2013, Bộ luật dân sự 2015.
Như vậy, Nghị định 59/2006/NĐ-CP ban hành Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh là chưa phù hợp về mặt thẩm quyền ban hành theo quy định tại Hiến pháp 2013, Bộ luật dân sự 2015 (các quy định liên quan đến hạn chế quyền con người, quyền công dân đều phải được quy định tại văn bản cấp luật).
Bên cạnh đó, Nghị định 59/2006/NĐ-CP quy định về Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện. Điều kiện để được kinh doanh các loại hàng hóa trong các Danh mục này được áp dụng trên “chủ thể kinh doanh” (tức là: các chủ thể kinh doanh phải đáp ứng các điều kiện nhất định mới được phép kinh doanh các loại hàng hóa, dịch vụ) chứ không phải là “điều kiện của hàng hóa, dịch vụ”.
Luật Đầu tư 2020 quy định Danh mục ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh, kinh doanh có điều kiện, trong đó xác định điều kiện để được kinh doanh các ngành nghề trong Danh mục được áp dụng trên “chủ thể kinh doanh”.
Như vậy, tính chất của hai loại Danh mục của Nghị định 59/2006/NĐ-CP và Luật Đầu tư 2020 là giống nhau, đều ràng buộc điều kiện đối với chủ thể kinh doanh. Theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật Đầu tư 2020 “Trường hợp có quy định khác nhau giữa Luật Đầu tư và luật khác đã được ban hành trước ngày Luật Đầu tư có hiệu lực thi hành về ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh hoặc ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện thì thực hiện theo quy định của Luật Đầu tư.”. Như vậy, các quy định về ngành, nghề cấm kinh doanh, kinh doanh có điều kiện sẽ áp dụng theo quy định tại Luật Đầu tư 2020.
Mặt khác, nếu xem xét các loại hàng hóa, dịch vụ trong Danh muc của Nghị định 59/2006/NĐ-CP nhận thấy, về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện và ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh, kinh doanh có điều kiện, danh mục tại Nghị định 59/2006/NĐ-CP có một số điểm khác so với Danh mục quy định tại Điều 6 Luật Đầu tư 2020.
Cụ thể, một số hàng hóa, dịch vụ quy định tại nghị định không có hoặc đã sửa đổi trong Luật Đầu tư. Việc tồn tại Danh mục tại Nghị định 59/2006/NĐ-CP đưa đến những rủi ro pháp lý cho doanh nghiệp, bởi vì Nghị định này vẫn đang có hiệu lực, nếu kinh doanh những loại hàng hóa, dịch vụ không có trong Danh mục của nghị định nhưng lại có trong Danh mục của Luật Đầu tư, doanh nghiệp sẽ không phải đáp ứng điều kiện gì nếu theo quy định tại nghị định, nhưng lại phải đáp ứng điều kiện kinh doanh nếu theo quy định tại Luật Đầu tư và ngược lại.
Ngoài ra, các hàng hóa, dịch vụ được liệt kê trong Danh mục tại Nghị định 59/2006/NĐ-CP được dẫn chiếu tới các văn bản quy định chi tiết, rất nhiều văn bản này đã hết hiệu lực. Tên của hàng hóa, dịch vụ trong Danh mục này cùng với cơ chế quản lý cũng đã thay đổi theo quy định hiện hành. Ví dụ: các dịch vụ liên quan đến hàng hải (dịch vụ kiểm đếm hàng hóa; dịch vụ vệ sinh tàu biển; dịch vụ xếp dỡ hàng hóa tại cảng biển), pháp luật về hàng hải không còn quy định chi tiết về các dịch vụ này nữa. Vì vậy, nếu áp dụng theo Nghị định 59/2006/NĐ-CP doanh nghiệp sẽ không biết áp dụng theo quy định nào, tại văn bản nào.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật Đầu tư 2020: “Quy định về tên ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh, ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện trong các luật khác phải thống nhất với Điều 6 và các Phụ lục của Luật Đầu tư”. Như vậy, việc thiết kế tên của hàng hóa, dịch vụ (có tính chất tương tự như là ngành nghề kinh doanh) tại Danh mục là chưa phù hợp với nguyên tắc về tên gọi theo quy định tại Luật Đầu tư 2020.
“Như vậy, việc thiết kế tên của hàng hóa, dịch vụ (có tính chất tương tự như là ngành nghề kinh doanh) tại Danh mục là chưa phù hợp với nguyên tắc về tên gọi theo quy định tại Luật Đầu tư 2020. Do đó, Danh mục về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, kinh doanh có điều kiện, hạn chế kinh doanh tại Nghị định 59/2016/NĐ-CP là chưa phù hợp với Luật Đầu tư 2020”, VCCI khẳng định.
Tuệ Minh