Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên giải thích nguyên nhân hàng loạt dự án điện tái tạo "đắp chiếu" tại Hội trường Quốc hội, chiều 1/6 |
Chiều 1/6, Quốc hội tiến hành thảo luận tại Hội trường, trong đó có công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2022.
Làm rõ ý kiến được nhiều ĐBQH quan tâm tại kỳ họp, Bộ trưởng Bộ Công Thương, cho hay nhiều dự án điện gió, điện mặt trời phát triển khá nhanh do cơ chế, chính sách khuyến khích của Nhà nước khá hấp dẫn. Việt Nam được đánh giá là quốc gia có tiềm năng lớn phát triển điện gió, điện mặt trời, tuy nhiên, có một số nghịch lý: nơi có tiềm năng về nắng và gió lại là nơi có phụ tải thấp, vì thế, muốn sử dụng hệ thống điện này phải đầu tư khá lớn cho truyền tải, lưu trữ điện.
Mặt khác, để duy trì thường xuyên, an toàn hệ thống điện, phát huy hiệu quả năng lượng tái tạo, phải có một nguồn điện nền ổn định, để bù đắp khi không có nắng, có gió. Ở Việt Nam, điện than, điện dầu, điện khí sinh khối, thủy điện cũng được xem là điện nền. Còn các nước có cả điện hạt nhân. Bởi vậy, dù có đắt hơn, phát thải cacbon có nhiều hơn, trong ngắn hạn chúng ta chưa có nguồn, giải pháp khác thay thế, thì các nguồn điện truyền thống vẫn được duy trì để bảo đảm an toàn hệ thống điện.
Than, dầu khí là những nguyên liệu sơ cấp, được thị trường thế giới ấn định giá. Mấy năm qua, do đứt gãy nguồn cung, giá cao dẫn đến giá điện cũng cao hơn nếu chưa tính đến phí truyền tải. Điện mặt trời không tốn tiền mua, giá thành chỉ phụ thuộc vào giá cả công nghệ, thiết bị. Tuy nhiên, công nghệ thế giới phát triển nhanh, nên giá thành công nghệ giảm đi hàng năm, 6-8% làm giá thành điện năng, năng lượng tái tạo chưa tính giá truyền tải và lưu trữ điện giảm theo thời gian. Về lâu dài, năng lượng tái tạo sẽ là nguồn rẻ nhất nếu chưa tính chi phí truyền tải, lưu trữ điện.
Về cơ chế tính giá năng lượng tái tạo, cơ sở pháp lý là căn cứ vào Luật Điện lực, Luật Giá và các nghị định của Chính phủ. Bộ Công Thương đã xây dựng khung giá được xác định trên cơ sở số liệu thống kê của các nhà máy điện mặt trời, điện gió, so sánh với số liệu của cơ quan năng lượng quốc tế, thực hiện đúng quy trình lấy ý kiến Bộ Tài chính, Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Hội đồng tư vấn về kết quả thẩm định khung giá…
Bộ trưởng khẳng định cơ chế giá cho các dự án năng lượng tái tạo chuyển tiếp hiện hành là phù hợp với giá thế giới và thực tiễn kinh tế xã hội trong nước.
Tuy nhiên, ông Nguyễn Hồng Diên cho biết, để được hưởng cơ chế khuyến khích (giá FIT) tại Quyết định 13 và Quyết định 39 (đã hết hiệu lực vào 31/12/2020 và 31/10/2021), hầu hết các doanh nghiệp chạy đua với thời gian, bỏ qua, bỏ sót thậm chí vi phạm quy định.
Hiện có 85 nhà máy năng lượng tái tạo đã ký hợp đồng với EVN nhưng không đủ điều kiện hưởng giá FIT với tổng số công suất 4.736 MW. Để tránh lãng phí, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Công Thương ban hành Thông tư 15, Quyết định 21 xác định khung giá năng lượng tái tạo chuyển tiếp. Bộ đã chỉ đạo EVN hướng dẫn, thỏa thuận sớm với nhà đầu tư để đưa vào vận hành.
Tuy nhiên, tính tới cuối tháng 3/2023, tức sau 2 tháng ban hành, chỉ có 1 nhà đầu tư đến nộp hồ sơ. Qua nhiều nỗ lực, đến 31/5, đã có 59 nhà máy, chiếm 71,6% dự án nộp hồ sơ. Trong đó có dự án đang đề xuất giá tạm thời bằng 50% khung giá để tiếp tục hoàn thiện thủ tục. Số doanh nghiệp còn lại vẫn chưa nộp hồ sơ.
Lý do chậm nộp hồ sơ của các đơn vị trên, theo Bộ trưởng có thể do không muốn đàm phán vì cho rằng khung giá thấp, chưa hoàn thiện quy định pháp lý, nhà máy ở vị trí khó khăn truyền tải điện. Tại diễn đàn Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Công Thương mong muốn mong Chính phủ sớm có chủ trương tháo gỡ để tránh lãng phí xã hội.
Về vấn đề nhập khẩu điện, Bộ trưởng khẳng định đây là chiến lược dài hạn dựa trên mối quan hệ chính trị, an ninh với các quốc gia láng giềng nhằm đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia trong mọi tình huống.
Từ năm 2015, Việt Nam đã nhập than, dầu để phát điện và sắp tới nhập khí LNG. Việc nhập khẩu điện thực hiện nhiều năm trước. Cụ thể, nhập khẩu điện của Trung Quốc từ năm 2010, và của Lào từ năm 2016. Dù vậy, Bộ trưởng cho hay, tỉ lệ nhập khẩu điện rất nhỏ, chỉ bằng 0,73% tổng sản lượng điện và chủ yếu cung cấp cho khu vực biên giới.
Minh Quang