Sáng 28/6, Tòa án quân sự Quân khu Thủ Đô tiếp tục phiên tòa xét xử 5 cựu tướng Cảnh sát biển và đồng phạm về tội “Tham ô tài sản”, với số tiền được xác định lên tới 50 tỷ đồng.
Sau phần công bố bản luận tội, Viện Kiểm sát đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt cựu Trung tướng Nguyễn Văn Sơn, cựu Tư lệnh Cảnh sát biển16 năm đến16 năm 6 tháng tù.
Cựu Trung tướng Hoàng Văn Đồng, cựu Chính ủy bị đề nghị tuyên phạt từ 15 năm 6 tháng đến 16 năm tù.
Các bị cáo cựu Thiếu tướng: Doãn Bảo Quyết, cựu Phó chính ủy; Phạm Kim Hậu, cựu Phó tư lệnh, cựu Tham mưu trưởng; Bùi Trung Dũng, cựu Phó tư lệnh cùng bị đề nghị tuyên phạt từ 15 năm đến 15 năm 6 tháng tù.
Cựu Đại tá Nguyễn Văn Hưng, cựu Cục trưởng Cục Kỹ thuật từ 10 năm đến 10 năm 6 tháng tù và cựu Thượng tá Bùi Văn Hòe, cựu Phó phòng Tài chính từ 12 năm đến 12 năm 6 tháng tù.
Thêm vào đó, Viện Kiểm sát cũng đề nghị tòa tuyên cấm các bị cáo đảm nhiệm các chức vụ trong 5 năm, sau khi thi hành xong án phạt tù.
Theo đánh giá của Viện Kiểm sát, đây là vụ án đặc biệt nghiêm trọng, liên quan đến các lãnh đạo, cán bộ cấp cao của Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển. Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm tài sản Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến uy tín, hình ảnh của Cảnh sát biển Việt Nam, lực lượng có trọng trách bảo vệ chủ quyền đất nước, luôn được nhân dân tin yêu.
Trong quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa, các bị cáo đã tích cực khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện nộp khắc phục toàn bộ hậu quả trước khi vụ án được khởi tố.
Cũng theo Viện Kiểm sát, các bị cáo có nhiều đóng góp với Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển nói riêng và đất nước nói chung, trong đó bị cáo Đồng có 11 năm công tác ở biên giới phía Bắc; bị cáo Sơn 8 năm công tác ở Tây Nguyên.
Ngoài ra, các bị cáo và gia đình đều là người có nhiều công trạng, đóng góp, được tặng thưởng nhiều huân, huy chương, bằng khen, giấy khen của các cơ quan, đơn vị.
Theo hồ sơ vụ án, năm 2019, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam phân bổ 150 tỷ đồng cho Cục Kỹ thuật để mua sắm vật tư, trang thiết bị. Sau đó, Nguyễn Văn Sơn yêu cầu Nguyễn Văn Hưng (thời điểm này là Cục trưởng Kỹ thuật) rút 50 tỷ đồng từ nguồn tiền trên, chuyển lại cho Bộ Tư lệnh sử dụng. Tuy nhiên, Hưng đề xuất việc rút tiền phải có sự thống nhất trong thủ trưởng Bộ Tư lệnh.
Đầu tháng 4/2019, tại phòng ăn của thủ trưởng Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển, Sơn cùng trung tướng Hoàng Văn Đồng và 3 thiếu tướng Doãn Bảo Quyết, Phạm Kim Hậu, Bùi Trung Dũng nói về việc rút 50 tỷ đồng ngân sách phân bổ cho Cục Kỹ thuật. Tại đây, tất cả đồng ý nên Sơn đã chỉ đạo Hưng thực hiện.
Trước phiên họp Thường vụ ngày 26/4/2019, Sơn chỉ đạo Bùi Văn Hòe cắt toàn bộ kinh phí bảo quản, sửa chữa trang bị của 4 vùng Cảnh sát biển, sau đó chỉ đạo phân bổ thêm 29 tỷ đồng, nâng nguồn chi cho mua sắm vật tư thành 179 tỷ đồng.
Đến ngày 4/5/2019, Nguyễn Văn Sơn ký quyết định giao dự toán ngân sách cho Cục Kỹ thuật 179 tỷ đồng, rồi yêu cầu Hưng rút 50 tỷ đồng chuyển cho Bộ Tư lệnh.
Tiếp đó, Hưng yêu cầu 6 Trưởng phòng dưới quyền phải rút từ 50 triệu đồng đến 25 tỷ đồng. Cấp dưới của Hưng phân chia nguồn ngân sách thành 29 gói thầu, trong đó có 9 gói giá trị dưới 10 tỷ đồng, với mục đích để Tư lệnh Cảnh sát biển phê duyệt, không phải báo cáo Bộ Quốc phòng.
Quá trình thực hiện, nhóm này cũng đã đặt vấn đề với các nhà thầu để nâng giá, nhằm có kinh phí “hỗ trợ đơn vị có nguồn quỹ vốn sử dụng vào mục đích phúc lợi”. Sau đó, 24 hợp đồng được Bộ tư lệnh Cảnh sát biển ký với 16 doanh nghiệp, giúp rút ruột ngân sách 50 tỷ đồng.
Đối với số tiền trên, Sơn chia đều cho mình và Chính ủy Hoàng Văn Đồng; Phó chính ủy Doãn Bảo Quyết; hai Phó tư lệnh Phạm Kim Hậu, Bùi Trung Dũng, mỗi người 10 tỷ đồng.
Đến ngày 19/6/2020, ông Hậu làm đơn gửi cơ quan chức năng, kèm theo 2 file ghi âm phản ánh về tiêu cực, tham nhũng của bản thân và các đồng phạm. Sau khi cơ quan chức năng vào cuộc kiểm tra, 5 người hưởng lợi đã tự nguyện nộp lại mỗi người 10 tỷ đồng để khắc phục toàn bộ hậu quả vụ án.
Trong vụ án trên, cơ quan tố tụng đánh giá, cựu trung tướng Nguyễn Văn Sơn giữ vai trò chủ mưu, khởi xướng. Bị can Hoàng Văn Đồng cùng là chủ mưu và chịu trách nhiệm sau ông Sơn. 7 bị can bị truy tố theo Khoản 4 Điều 353 Bộ luật Hình sự, với khung hình phạt tù 20 năm, chung thân hoặc tử hình.