Mới đây, TAND TP Cần Thơ đã đưa ra xét xử phúc thẩm vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản đối với bị cáo Hồ Thị Mộng Thường. Vụ án xảy ra từ năm 2012, đến nay đã trải qua bốn lần xét xử.
Chỉ đất sai vị trí để trục lợi
Theo hồ sơ, vợ chồng bà LTP có nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất (QSDĐ) của một người với diện tích 226 m2 ở quận Ninh Kiều, TP Cần Thơ.
Tháng 7-2012, bà P. muốn chuyển nhượng phần đất trên nên nhờ người làm thuê cho vợ chồng bà tìm người môi giới chuyển nhượng.
Người này giới thiệu cho Thường (là người môi giới mua bán đất) đến gặp bà P. Bà P. nhờ Thường tìm người môi giới bán phần đất trên với giá 325 triệu đồng và chi 2% tiền hoa hồng. Thường thỏa thuận với bà P. không cần tiền hoa hồng nhưng Thường sẽ kêu giá bán cao hơn, tiền chênh lệch Thường sẽ hưởng. Bà P. đồng ý và đưa cho Thường bản phôtô giấy chứng nhận QSDĐ.
Bị cáo Thường tại phiên tòa phúc thẩm ngày 31-5. Ảnh: NHẪN NAM
Đầu tháng 8-2012, qua bạn bè, Thường gặp ông DVH. Thường đưa cho ông H. bản phôtô giấy chứng nhận QSDĐ của vợ chồng bà P. Thường nói dối với ông H. là phần đất trên có một căn nhà cấp 4 và chín phòng trọ. Thường nói với ông H. là chủ đất thế chấp vay 600 triệu đồng với hình thức ký hợp đồng chuyển nhượng, vay trong vài tháng, phí dịch vụ môi giới là 10%, số tiền môi giới này Thường và ông H. sẽ chia đôi.
Ông H. yêu cầu xem đất thì Thường dẫn ông tới căn nhà cấp 4 có chín phòng trọ của một người dân, cách thửa đất của bà P. 50 m để ông H. thấy đất có giá trị kinh tế cao mà nhận thế chấp.
Do tin tưởng, ông H. đồng ý cho vay thế chấp 600 triệu đồng trong thời gian sáu tháng, lãi suất 5%/tháng. Hình thức ký hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ. Sau đó, Thường và ông H. đến nhà bà P. xem bản chính giấy đất.
Ngày 3-8-2012, Thường cùng vợ chồng bà P. đến văn phòng công chứng ký hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ cho ông H.
Sau khi ký hợp đồng, Thường cùng vợ chồng bà P., ông H. đến quán cà phê để giao nhận tiền. Theo đó, trừ tiền lãi suất tháng đầu 30 triệu đồng, phí môi giới 30 triệu đồng, ông H. đưa bà P. 540 triệu đồng. Bà P. lấy 325 triệu đồng, đưa lại cho Thường 215 triệu đồng. Thường đưa cho người làm của nhà bà P. 17,5 triệu đồng tiền hoa hồng, số còn lại Thường đưa cho một phụ nữ khác mượn để trả nợ.
Một tháng sau, ông H. tìm bà P. để lấy tiền lãi thì phát hiện bà P. chuyển nhượng đất chứ không thế chấp. Ông H. đến xem lại phần đất mà Thường đã chỉ thì phát hiện đất này của người khác chứ không phải đất mình đã nhận chuyển nhượng. Ngày 7-11-2012, ông H. tố cáo hành vi của Thường.
Bắt giam bị cáo ngay tại tòa
Xử sơ thẩm (lần hai) vào tháng 2, TAND quận Ninh Kiều tuyên phạt Thường bảy năm tù về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tuyên hợp đồng chuyển nhượng đất vô hiệu hoàn toàn...
Thường kháng cáo xin xem xét lại vai trò của những người khác và cho rằng mình chỉ chiếm đoạt 12,5 triệu đồng. Mẹ Thường kháng cáo xin nhận lại số tiền đã nộp khắc phục cho con gần 200 triệu đồng. Vợ chồng bà P. kháng cáo yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng đất với ông H.
Đại diện VKS đề nghị tòa bác kháng cáo của bị cáo và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Sau khi nghị án, HĐXX nhận định bị cáo Thường chính là người dẫn ông H. đi xem đất và cố ý chỉ miếng đất có giá trị cao hơn. Tòa cho rằng bị cáo đã chiếm đoạt 215 triệu đồng.
Theo tòa, bị cáo nói làm theo chỉ dẫn của người phụ nữ (đã nhận 180 triệu đồng) nhưng không có chứng cứ chứng minh. Mẹ bị cáo đã tự nguyện giao nộp gần 200 triệu đồng để bảo lãnh cho bị cáo tại ngoại nên không có cơ sở trả lại số tiền này. Hợp đồng chuyển nhượng đất bị gian dối ngay từ đầu nên vô hiệu hoàn toàn.
Từ đó, tòa phúc thẩm quyết định bác kháng cáo của bị cáo và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, tuyên y án sơ thẩm, phạt bị cáo Thường bảy năm tù; tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng đất giữa vợ chồng bà P. và ông H. vô hiệu hoàn toàn…
Sau khi tuyên án, tòa đã ra quyết định bắt giam bị cáo ngay tại tòa để đảm bảo thi hành án.
Tòa từng hủy án sơ thẩm Xử sơ thẩm lần đầu vào năm 2017, TAND quận Ninh Kiều xử phạt Thường bảy năm tù về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Đồng thời tòa buộc Thường trả lại số tiền 197,5 triệu đồng, người làm của nhà bà P. trả lại 17,5 triệu đồng cho ông H. Vợ chồng bà P. phải trả lại ông H. 325 triệu đồng. Ông H. phải trả lại bản chính giấy tờ đất cho vợ chồng bà P. Thường, vợ chồng bà P. và mẹ Thường kháng cáo. Xử phúc thẩm sau đó, TAND TP Cần Thơ hủy án sơ thẩm. |