vĐồng tin tức tài chính 365

Di sản kinh tế của ông Shinzo Abe

2022-07-08 17:30

Shinzo Abe là thủ tướng tại nhiệm lâu nhất Nhật Bản. Năm 2012, ông nhậm chức thủ tướng trong bối cảnh quốc gia này vẫn đang phục hồi sau khủng hoảng tài chính 2008. Nhật Bản khi đó cũng đã trải qua 2 thập kỷ giảm phát và tăng trưởng chậm.

Để hồi sinh nền kinh tế, ông Abe triển khai Abenomics – nhóm chính sách kinh tế gồm 3 mũi tên là nới lỏng tài khóa, nới lỏng tiền tệ và cải tổ cấu trúc quy mô lớn. Năm 2013, chính phủ Nhật Bản công bố chi 10.300 tỷ yen (116 tỷ USD) cho cơ sở hạ tầng, xây đường bộ, nhà và cầu. Năm 2014, nước này bổ sung thêm 2 đợt kích thích nữa, trị giá 5.500 tỷ yen và 3.500 tỷ yen.

Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) cũng vào cuộc với chương trình mua lại tài sản chưa từng có tiền lệ. BOJ liên tiếp bơm tiền vào nền kinh tế, với tốc độ 80.000 tỷ yen mỗi năm, chủ yếu thông qua mua trái phiếu chính phủ Nhật Bản. Năm 2016, cơ quan này còn lần đầu tiên hạ lãi suất xuống âm.

Cựu Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe. Ảnh: Reuters

Cựu Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe. Ảnh: Reuters

Abenomics nhờ đó đã có một số thành công nhanh chóng. Chương trình kích thích khổng lồ của BOJ đã kéo niềm tin kinh doanh lên cao, góp phần khiến đồng yen yếu đi, giúp các hãng xuất khẩu Nhật Bản có thêm lợi nhuận, tăng lương và tạo thêm việc làm.

Tháng 6/2013, Nhật Bản lần đầu lạm phát sau hơn một năm, khi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 0,4%. Tại Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) năm 2014, ông Shinzo Abe còn phát biểu: "Mùa xuân này, lương của người lao động sẽ tăng, kéo tiêu dùng lên theo. Nhật Bản không còn ở thời kỳ chạng vạng nữa, mà đã bước sang bình minh".

Năm 2017, Nhật Bản ghi nhận chuỗi tăng trưởng quý dài nhất kể từ năm 2001. David Kuo - Giám đốc Motley Fool Singapore khi đó nhận xét số liệu này cho thấy "nới lỏng định lượng có tác dụng tại Nhật Bản". Đây là kết quả sau hơn 4 năm nước này thực hiện Abenomics.

Cải tổ quản trị doanh nghiệp cũng thu hút lượng lớn dòng tiền từ nước ngoài. Tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư ngoại với cổ phiếu niêm yết tại Nhật Bản cũng lên kỷ lục 31,7% năm 2014, so với 28% năm 2012.

Dù vậy, mục tiêu cải tổ cấu trúc trong Abenomics không được giới phân tích đánh giá cao. "Cải tổ cấu trúc là thất bại của Abenomics", Samuel Tombs – kinh tế trưởng tại Pantheon Macroeconomics nhận xét, "Kể cả chính sách cải cách nhập cư của chính phủ năm 2019 cũng gần như không thực hiện được".

Bên cạnh đó, sau nhiều năm thực hiện Abenomics, tình trạng lạm phát thấp tại Nhật Bản vẫn không cải thiện đáng kể, cách xa mục tiêu 2% của BOJ. Lạm phát trung bình giai đoạn 2000 – 2020 của nước này chỉ khoảng 0,1%. Các chiến lược tăng trưởng của ông Abe cũng chịu tác động từ đợt nâng thuế năm 2019 và chiến tranh thương mại Mỹ - Trung Quốc.

Giới quan sát tại Nhật Bản thì cho rằng Abenomics đã lao đao từ lâu. Sự xuất hiện của đại dịch có lẽ đã đặt dấu chấm hết cho chương trình này, khi nền kinh tế bị nhấn chìm vào suy thoái.

Covid-19 giáng đòn mạnh vào cuộc thử nghiệm của Abenomics nhằm đảo ngược "tâm lý giảm phát" tại Nhật Bản. Các doanh nghiệp và hộ gia đình nước này vẫn kiềm chế chi tiêu do kỳ vọng tăng trưởng GDP sẽ thấp và lương giữ nguyên.

GDP Nhật Bản giảm kỷ lục trong quý II/2020, về 507.000 tỷ yen (4.800 tỷ USD). Mức này chỉ tương đương năm 2013 và kém xa mục tiêu 600.000 tỷ yen của ông Abe.

"Kinh tế Nhật Bản lẽ ra đã có thể tốt hơn sau Abenomics. Nhưng chính sách này không đủ để thay đổi mạnh tâm lý của người dân", Yoshiki Shinke – kinh tế trưởng tại Viện nghiên cứu Dai-ichi Life nhận xét.

Sau khi ông Abe từ chức năm 2020, Abenomics vẫn tiếp tục được thực hiện dưới thời cựu Thủ tướng Yoshihide Suga và Thủ tướng đương nhiệm Fumio Kishida. Dù vậy, kinh tế Nhật Bản chưa được cải thiện rõ rệt. Thậm chí, chính sách này còn đang bộc lộ nhiều điểm yếu.

Trong bối cảnh hàng loạt nền kinh tế lớn trên thế giới nâng lãi suất để ghìm lạm phát, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) vẫn giữ lãi suất ở mức quanh 0% để kích thích kinh tế. Việc này khiến yen Nhật mất giá so với USD, kéo chi phí sinh hoạt của người dân lên cao. Và dù Abenomics tạo ra nhiều việc làm, đa phần là việc không thường xuyên.

Ngoài Abenomics, ông Abe còn khởi xướng Womenomics, nhằm tăng tỷ lệ phụ nữ tham gia vào thị trường lao động. Năm 2020, tỷ lệ này là 73%.

Chính phủ Nhật Bản cũng yêu cầu các doanh nghiệp tăng bổ nhiệm phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo. Họ cho rằng việc tăng thu nhập và địa vị cho phụ nữ cũng sẽ làm tăng tỷ lệ sinh, tương tự các nước như Thụy Điển hay Đan Mạch. Dù vậy, giới quan sát cho rằng thành công của chính sách này đến nay là không đáng kể.

Hà Thu (theo Reuters, Mainichi)

Xem thêm: lmth.8835844-eba-oznihs-gno-auc-et-hnik-nas-id/ten.sserpxenv

Comments:0 | Tags:No Tag

“Di sản kinh tế của ông Shinzo Abe”0 Comments

Submit A Comment

Name:

Email:

Blog :

Verification Code:

Announce

Tools