2 loại ý kiến về đổi tên luật
Trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý một số nội dung lớn của dự thảo luật, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng - An ninh Lê Tấn Tới cho biết về tên gọi của dự thảo luật, hiện còn 2 loại ý kiến.
Theo đó, loại ý kiến thứ nhất đồng ý đổi tên luật thành Luật Căn cước và cho rằng việc sử dụng tên gọi này có những ưu điểm và hạn chế.
Trong đó, ưu điểm thể hiện bao quát, đầy đủ các chính sách được đề xuất khi đề nghị bổ sung dự án luật vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, phù hợp với phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng; thể hiện đúng bản chất của công tác quản lý căn cước.
Không tác động đến vấn đề quốc tịch cũng như địa vị pháp lý của công dân; không tác động đến các luật khác.
Song có hạn chế là tác động đến tâm lý một bộ phận người dân, lo ngại sẽ phải thay đổi căn cước công dân, thay đổi các thủ tục hành chính sử dụng căn cước công dân, không bảo đảm sự ổn định của chính sách.
Tác động đến đại đa số công dân Việt Nam hiện đang được cấp và sử dụng thẻ căn cước công dân.
Loại ý kiến thứ hai, theo ông Tới, đề nghị giữ tên luật là Luật Căn cước công dân.
Về ưu điểm tên gọi này đã sử dụng ổn định, góp phần giữ ổn định các quy định của pháp luật hiện hành, các loại giấy tờ, thủ tục hành chính, dân sự, phù hợp với tên gọi trong nghị quyết 33/2023 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Tên gọi Luật Căn cước công dân gắn với tên gọi căn cước công dân thể hiện địa vị pháp lý là công dân Việt Nam với đầy đủ quyền và nghĩa vụ của công dân Việt Nam.
Tuy nhiên, có hạn chế là thể hiện không đầy đủ chính sách sửa đổi, bổ sung tại dự thảo luật này, chưa phù hợp, bao quát đầy đủ phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng.
Ông Tới cho hay, thường trực Ủy ban Quốc phòng - An ninh nhất trí với loại ý kiến thứ nhất. Tuy nhiên, đây là nội dung còn có ý kiến khác nhau, do đó, thường trực ủy ban đề nghị đại biểu Quốc hội tiếp tục cho ý kiến về tên gọi của luật.
"Căn cước" hay "căn cước công dân"?
Về tên gọi của căn cước, ông Tới nêu rõ cũng có 2 loại ý kiến. Trong đó, loại ý kiến thứ nhất đồng ý với tên thẻ căn cước như dự thảo luật Chính phủ trình và cho rằng việc sử dụng tên gọi căn cước có ưu điểm và hạn chế.
Ưu điểm thể hiện đúng bản chất của thẻ là loại giấy tờ có chứa thông tin về căn cước của người dân, giúp phân biệt người này với người khác, xác định danh tính trong thực hiện giao dịch…
Đồng thời, bảo đảm tương đồng với thông lệ quốc tế, tạo tiền đề cho hội nhập quốc tế, công nhận giấy tờ về căn cước giữa các nước.
Ngoài ra, việc đổi tên thẻ cũng không phát sinh chi phí vì căn cước công dân hiện tại vẫn còn giá trị sử dụng đến thời điểm đổi.
Tuy nhiên, hạn chế là có tâm lý cho rằng chính sách của Nhà nước thiếu ổn định; e ngại việc thay đổi tên làm phát sinh thủ tục đổi thẻ và phát sinh chi phí đổi.
Bên cạnh đó, phần nào dẫn đến xáo trộn khi thể hiện thông tin về căn cước/căn cước công dân trong các giấy tờ của công dân có sử dụng thông tin. Chưa thể hiện tính chất cá thể hóa và không thể hiện địa vị pháp lý của người được cấp là công dân Việt Nam.
Về loại ý kiến thứ hai, theo ông Tới, đề nghị giữ nguyên tên căn cước công dân như luật hiện hành và cho rằng việc sử dụng tên căn cước công dân có ưu điểm và hạn chế.
Ông nêu ưu điểm là thể hiện rõ người được cấp là công dân Việt Nam, phù hợp với đối tượng được cấp là công dân Việt Nam như Chính phủ trình.
Cùng với đó khẳng định địa vị pháp lý ngay từ tên, thể hiện tính cá thể hóa của người được cấp, không tác động tâm lý đối với một bộ phận người dân.
Song hạn chế là chưa bảo đảm sự tương đồng về tên với thông lệ chung của thế giới, có thể dẫn đến không sử dụng được khi hội nhập quốc tế.
Ông Tới chỉ rõ thường trực ủy ban cho rằng việc đổi tên căn cước như dự thảo luật Chính phủ trình là phù hợp, không phát sinh thủ tục, không phát sinh chi ngân sách nhà nước, chi phí của xã hội.
Tuy nhiên, đây là nội dung còn nhiều ý kiến khác nhau, do đó, ông Tới đề nghị các đại biểu cho ý kiến để lựa chọn quyết định về tên gọi của thẻ.
Dự thảo sửa đổi Luật Căn cước công dân mới nhất đã nêu quy trình dự kiến sẽ thực hiện để cấp căn cước cho trẻ em dưới 14 tuổi.