So với cùng kỳ năm trước, ngành chế biến, chế tạo tăng 3,5%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 3,7%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,8%; riêng ngành khai khoáng giảm 6,2%.
Tính chung 8 tháng năm 2023, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) ước tính giảm 0,4% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2022 tăng 9,2%).
Trong đó, ngành chế biến, chế tạo giảm 0,6% (cùng kỳ năm 2022 tăng 10,1%), làm giảm 0,3 điểm phần trăm trong mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 1,7%, đóng góp 0,2 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,8%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm; ngành khai khoáng giảm 2,5%, làm giảm 0,4 điểm phần trăm.
Đáng chú ý, chỉ số sản xuất 8 tháng năm 2023 của một số ngành công nghiệp trọng điểm cấp II tăng cao so với cùng kỳ năm trước: sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 9,9%; sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 8,6%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 8,4%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 7%; khai thác quặng kim loại tăng 6,5%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 5,6%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 5,4%.
Ở chiều ngược lại, chỉ số công nghiệp của một số ngành giảm: sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học giảm 3,9%; sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu giảm 4,1%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 4,4%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa, sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy cùng giảm 4,8%; sản xuất trang phục giảm 5,1%; sản xuất phương tiện vận tải khác giảm 6%; sản xuất xe có động cơ giảm 6,5%.
Chỉ số sản xuất công nghiệp 8 tháng so với cùng kỳ năm trước đã tăng ở 49 địa phương và giảm ở 14 địa phương trên cả nước.
Một số địa phương có chỉ số sản xuất công nghiệp đạt mức tăng khá cao như: Bắc Giang tăng 16,4%; Phú Thọ tăng 15,7%; Nam Định tăng 13,8%; Kiên Giang tăng 13%; Hải Phòng tăng 12,1%; Phú Yên tăng 11,8%. Địa phương có chỉ số của ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao: Hậu Giang tăng 183,8%; Thái Bình tăng 91%; Trà Vinh tăng 34,7%.
Ngược lại, một số địa phương có chỉ số IIP giảm do ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm là: Quảng Nam giảm 32,2%; Bắc Ninh giảm 16,9%; Vĩnh Long giảm 14,4%; Sóc Trăng giảm 4,8%.
Địa phương có chỉ số của ngành sản xuất và phân phối điện giảm, gồm: Lai Châu giảm 35,2%; Sơn La giảm 34,7%; Cao Bằng giảm 33,8%; Điện Biên giảm 30,4%; Hòa Bình giảm 26,2%.
Địa phương có ngành khai khoáng giảm: Vĩnh Long giảm 79,9%; Hà Giang giảm 42,2%; Điện Biên giảm 9,5%; Quảng Nam giảm 4,9%.
Trong 8 tháng năm 2023, một số sản phẩm công nghiệp chủ lực tăng cao so với cùng kỳ năm trước là: đường kính tăng 34,9%; phân hỗn hợp N.P.K tăng 14,2%; xăng, dầu tăng 10,1%; ti vi tăng 10%; sơn hóa học tăng 9,5%; thuốc lá điếu và vải dệt từ sợi nhân tạo cùng tăng 8,6%; thép cán tăng 6,5%.
Ngược lại, một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ năm trước, gồm: ô tô giảm 20,4%; điện thoại di động giảm 17,7%; thép thanh, thép góc giảm 15,5%; xe máy giảm 7,4%; quần áo mặc thường giảm 5,8%; xi măng giảm 5,6%; linh kiện điện thoại giảm 4,7%.
Về tình hình lao động, số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 1/8/2023 tăng 0,9% so với cùng thời điểm tháng trước và giảm 2,9% so với cùng thời điểm năm trước.
Trong đó, số việc làm tại khu vực doanh nghiệp nhà nước tương đương tháng trước và giảm 1,9% so với cùng thời điểm năm 2022, tương ứng tại khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 0,4% và giảm 2,9%; khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 1,3% và giảm 3%.
VTV.vn - Những tín hiệu tích cực gần đây được xem là bước đệm vững chắc để chỉ số sản xuất công nghiệp đạt mục tiêu tăng trưởng đã đặt ra từ đầu năm.
* Mời quý độc giả theo dõi các chương trình đã phát sóng của Đài Truyền hình Việt Nam trên TV Online và VTVGo!
Xem thêm: mth.37595054192803202-cuc-hcit-gnourt-gnat-8-gnaht-peihgn-gnoc-taux-nas/et-hnik/nv.vtv