Sáng 20-9 (giờ New York, Mỹ), trong khuôn khổ hoạt động của Tuần lễ cấp cao Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc khóa 78, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn đã ký Hiệp định về bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học ở vùng biển nằm ngoài quyền tài phán quốc gia (Hiệp định về biển cả).
Hiệp định về biển cả là gì?
Theo thông tin từ Bộ Ngoại giao, Hiệp định trong khuôn khổ Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) năm 1982 về bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học tại các vùng biển ngoài phạm vi tài phán quốc gia, còn gọi là Hiệp định về biển cả. Đây là văn kiện đầu tiên điều chỉnh toàn diện việc bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gene biển ở các vùng biển quốc tế.
Nguồn gene ở các vùng biển quốc tế là nguồn lợi mới đầy tiềm năng, thuộc các vùng biển rộng lớn chiếm hơn 60% diện tích bề mặt của các đại dương mà không thuộc về quốc gia nào.
Nhiều vùng ở đáy đại dương có hệ sinh thái đặc biệt giàu có, với nhiều loại gene quý hiếm, có giá trị cao cho nghiên cứu khoa học và tiềm năng kinh tế lớn, nhất là có thể tạo ra thuốc điều trị bệnh hiểm nghèo, sản xuất dược mỹ phẩm.
Hiện nay, hầu như chỉ có các nước phát triển và công ty tư nhân sở hữu công nghệ biển và công nghệ sinh học hàng đầu, với nguồn tài chính dồi dào mới có khả năng thu thập nguồn gene biển khơi và phát triển ứng dụng đem lại lợi nhuận, trong khi chưa có văn kiện quốc tế nào quy định nghĩa vụ chia sẻ lợi ích cũng như bảo tồn nguồn lợi này.
Hiệp định sẽ có hiệu lực sau khi có 60 nước phê chuẩn, phê duyệt.
Nhiều ý nghĩa cho thế giới và Việt Nam
Hơn 60 quốc gia tham gia ký hiệp định trong khuôn khổ tuần lễ cấp cao. Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên tham gia ký hiệp định, nhân chuyến làm việc của Thủ tướng Phạm Minh Chính tại tuần lễ cấp cao Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc.
Điều này khẳng định Việt Nam là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, chung tay cùng các quốc gia trên thế giới giải quyết các vấn đề toàn cầu, đóng góp vào hòa bình, thịnh vượng và phát triển bền vững.
Việc thông qua và ký hiệp định là một dấu mốc lịch sử trong nỗ lực của cộng đồng quốc tế về bảo vệ môi trường biển, trong bối cảnh các nước thực hiện Chương trình nghị sự 2030, đặc biệt là Mục tiêu phát triển bền vững số 14 về bảo tồn và sử dụng bền vững biển và tài nguyên biển.
Đây là hiệp định thứ ba được đàm phán và ký kết trong khuôn khổ UNCLOS năm 1982. Như vậy, hiệp định tái khẳng định vai trò, tầm quan trọng của UNCLOS với tư cách là khuôn khổ pháp lý cho mọi hoạt động trên biển và đại dương.
"Hiệp định mở ra cơ hội cho Việt Nam và các nước đang phát triển khác được tham gia nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ biển, và được hưởng lợi về mặt kinh tế từ việc các quốc gia khác có lợi thế lớn hơn về tiềm lực tài chính, khoa học - công nghệ khai thác nguồn gene ở vùng biển khơi và chia sẻ lại lợi ích với chúng ta", Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn khẳng định.
Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh Chiến lược phát triển kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045. Trong đó đã xác định "Phát triển khoa học, công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực biển chất lượng cao" là một trong những khâu đột phá, giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện mục tiêu "Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh, an toàn; kinh tế biển đóng góp quan trọng vào nền kinh tế đất nước, góp phần xây dựng nước ta thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa".
Hiệp định tạo ra và khuyến khích những cơ chế hợp tác quốc tế, hợp tác biển khu vực nhằm mục tiêu bảo tồn, chia sẻ lợi ích từ nguồn gene biển: "Đó là những cơ hội để Việt Nam có thể thúc đẩy hợp tác, tăng cường đan xen lợi ích, góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa", bộ trưởng ngoại giao nêu.
Ông Bùi Thanh Sơn cũng cho hay Việt Nam đã tham gia tiến trình đàm phán ngay từ đầu, có những đóng góp thực chất trong các nội dung liên quan đến xây dựng năng lực, chuyển giao công nghệ, thành lập các khu bảo tồn biển.
"Điều này góp phần thực hiện tầm nhìn của Chiến lược biển Việt Nam về tham gia chủ động và có trách nhiệm vào giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực về biển và đại dương, thực hiện chủ trương phấn đấu đóng vai trò "nòng cốt, dẫn dắt, hòa giải tại các diễn đàn đa phương có tầm quan trọng chiến lược đối với đất nước, nêu tại chỉ thị 25 của Ban Bí thư về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030", ông Sơn nêu.
Các nước cần làm gì sau khi ký kết?
Sau khi ký, các quốc gia cần thực hiện thủ tục phê chuẩn, phê duyệt để chính thức trở thành thành viên của hiệp định.
Hiệp định sẽ có hiệu lực 120 ngày sau khi có 60 nước thành viên. Trong vòng 1 năm kể từ ngày có hiệu lực, tổng thư ký Liên Hiệp Quốc sẽ triệu tập cuộc họp đầu tiên của hội nghị thành viên.
Cuộc họp đầu tiên sẽ thảo luận và quyết định rất nhiều công việc quan trọng, trong đó bao gồm việc đàm phán, thông qua thủ tục vận hành của chính hội nghị thành viên, cũng như các cơ quan khác được thành lập theo hiệp định, quyết định tỉ lệ đóng góp thường niên của các nước phát triển cho quỹ đặc biệt của hiệp định, dàn xếp về tài trợ.
Các nước thành viên Liên Hiệp Quốc tham gia Hội nghị Liên chính phủ sẽ phải theo sát quá trình này nếu muốn triển khai và bảo vệ các thành quả đã đạt được trong đàm phán. Để theo sát tiến trình, đóng góp vào thực thi đầy đủ và hiệu quả hiệp định, điều đầu tiên cần thực hiện là phải sớm phê duyệt hiệp định.
Chỉ thị 25 của Ban Bí thư về Đẩy mạnh và tăng cường đối ngoại đa phương đến năm 2030 nhấn mạnh yêu cầu chủ động tham gia, tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự kinh tế - chính trị quốc tế minh bạch, công bằng, dân chủ, bền vững; đồng thời khai thác, phát huy tối đa lợi ích mà hợp tác đa phương mang lại.
"Trước yêu cầu đó, việc ký hiệp định mới chỉ là điểm khởi đầu, rất nhiều công việc còn ở phía trước và cần sự tích cực, chủ động của Bộ Ngoại giao cùng nhiều bộ, ngành liên quan", Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn nhấn mạnh.
Ngày 29-8, tại Bảo tàng Cần Thơ đã khai mạc triển lãm ảnh “Biển đảo Việt Nam - Đẹp và thanh bình”, trưng bày chuyên đề “Âm thanh xưa”, chào mừng Quốc khánh 2-9.