Theo Báo cáo Quốc gia về Khí hậu và Phát triển cho Việt Nam của World Bank hồi tháng 7/2022, trong hai thập kỷ qua, Việt Nam đã chứng kiến tốc độ tăng trưởng phát thải nhà kính (KNK) nhanh nhất trên thế giới. Về giá trị tuyệt đối, lượng phát thải khí nhà kính của Việt Nam đạt 364 triệu tấn carbon dioxide (CO2) năm 2018, chiếm không quá 0,8% lượng phát thải toàn cầu.
Trong khi đó, nền kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng với tốc độ đáng kể trong thập kỷ qua, một xu hướng dự kiến sẽ tiếp tục trong trung hạn bất chấp khủng hoảng Covid-19.
Để đáp ứng mức tăng trưởng kinh tế đó, năng lượng sẽ tiếp tục được sử dụng ngày càng nhiều với hậu quả tiêu cực là tăng phát thải KNK. Khí hậu biến đổi ngày càng làm gián đoạn nền kinh tế Việt Nam, và mức chi phí đang dần làm sự tăng trưởng bị suy yếu dần. Tính toán ban đầu từ Phân tích Môi trường Quốc gia (CEA) gần đây cho thấy, năm 2020, Việt Nam đã tổn thất 10 tỷ USD do biến đổi khí hậu, tương đương 3,2% GDP.
Những thay đổi kinh tế vĩ mô này đã có tác động đến nền kinh tế và hệ thống tài chính vốn chịu tác động vật lý đáng kể của biến đổi khí hậu, do kinh tế tăng trưởng nhanh chóng và phụ thuộc vào các lĩnh vực nhạy cảm với khí hậu như năng lượng, giao thông vận tải và nông nghiệp.
Với sự gia tăng của tham vọng khí hậu toàn cầu, nền kinh tế cũng phải đối mặt với nhiều rủi ro chuyển đổi, như tài sản bị mắc kẹt trong ngành nhiên liệu hóa thạch, và khả năng ngành xuất khẩu bị gián đoạn. Những rủi ro này có thể chuyển thành rủi ro cho ngành tài chính, đặc biệt nếu các tổ chức tài chính - ngân hàng thực hiện nhiều giao dịch với những ngành có rủi ro cao.
Tại Diễn đàn "Tài chính khí hậu Việt Nam với chủ đề Xanh hoá ngành ngân hàng - Đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế carbon thập tại Việt Nam” sáng 21/9, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Phạm Thanh Hà cho rằng, tăng trưởng xanh và phát triển bền vững đã trở thành xu thế tất yếu, là mục tiêu mà mọi quốc gia đang hướng tới.
"Trong thời gian qua, Việt Nam đã tích cực tham gia thực hiện các cam kết quốc tế về giảm phát thải khí nhà kính, giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững”, Phó Thống đốc nói.
Theo báo cáo của các quốc gia tại Hội nghị COP27, Việt Nam là một trong các quốc gia đã có những hành động nhanh, kịp thời để triển khai cam kết bằng việc ban hành khung chính sách tăng trưởng xanh, như: Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh; Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu đến năm 2050; Đề án về những nhiệm vụ, giải pháp triển khai kết quả Hội nghị COP26; ban hành Luật Bảo vệ môi trường (2020) tạo khuôn khổ pháp lý thúc đẩy các công cụ kinh tế thực hiện tăng trưởng xanh.
Đối với riêng ngành ngân hàng, bà Phạm Thị Thanh Tùng - Phó Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, Ngân hàng Nhà nước chia sẻ, thời gian qua NHNN đã triển khai nhiều giải pháp để các tổ chức tín dụng góp phần thực hiện Chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia và ngành ngân hàng cũng xác định đây là nhiệm vụ thực hiện các mục tiêu của Chính phủ.
“Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra nhiều giải pháp để góp phần thực hiện các mục tiêu Chính phủ đề ra”, bà Tùng thông tin.
Bên cạnh đó, Phó Thống đốc Phạm Thanh Hà kỳ vọng, các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài hiểu rõ hơn về môi trường pháp lý của Việt Nam trong lộ trình tiến tới nền kinh tế phát thải ròng bằng 0 và ngành tài chính hướng tới lộ trình tài chính xanh. Qua đó, sẽ khai thác tốt hơn các cơ hội đầu tư về khí hậu thông qua ngành tài chính và thị trường vốn trong nước.
Cũng chia sẻ tại Diễn đàn, ông Phan Thanh Hải - Phó Tổng Giám đốc BIDV cho biết, về phát triển thể chế, ngân hàng đã thành lập Ban Chỉ đạo ESG chuyên trách và Ban Quản lý dự án Tài chính bền vững.
BIDV có chiến lược kinh doanh đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 về phát triển tín dụng xanh, ngân hàng xanh với các yêu cầu thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro, môi trường và xã hội trong hoạt động tín dụng.
Tính đến thời điểm 30/6/2023, BIDV đã có 1.776 dự án, 1.447 khách hàng. Dư nợ cho các dự án xanh đạt 2,81 tỷ USD, chiếm tỉ trọng 4,1% tổng dự nợ tại BIDV. Các lĩnh vực đáng chú ý là năng lượng tái tạo; quản lý nguồn nước; quản lý chất thải và ngăn ngừa ô nhiễm và nông nghiệp bền vững.
Theo khảo sát của Morgan Stanley, 84% chủ sở hữu tài sản toàn cầu đang lồng ghép đầu tư bền vững vào quá trình đầu tư của họ, hoặc đang tích cực cân nhắc việc này.
Giá trị lũy kế của trái phiếu xanh, trái phiếu xã hội, trái phiếu bền vững và liên kết với bền vững đã phát hành đạt 4.400 tỷ USD tính đến tháng 6/2023.
Trái phiếu xanh chiếm 64% và lượng phát hành tại thị trường mới nổi chiếm 16% tổng khối lượng. Khu vực công chiếm 31% (1.370 tỷ USD) tổng khối lượng phát hành đến thời điểm hiện tại. 71% nhà đầu tư cá nhân quan tâm đến đầu tư bền vững, 84% nhà đầu tư thế hệ trẻ quan tâm đến đầu tư bền vững.
Trái phiếu xanh/khoản vay tiếp tục là công cụ được ưa thích, song có sự gia tăng nhanh chóng khối lượng phát hành ở các lĩnh vực tài chính bền vững chuyên đề như trái phiếu xanh lam, trái phiếu liên kết với bền vững và trái phiếu chuyển đổi.