Việt Nam là quốc gia kiểu mẫu về thực hành tốt vì mục tiêu hợp tác Nam - Nam
Phát biểu khai mạc Hội thảo tham vấn Nam - Nam về chấm dứt tâm lý ưa thích con trai, hạ thấp giá trị con gái, và lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới, diễn ra vào ngày 4.10, tại Hà Nội, Giám đốc Văn phòng Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) khu vực châu Á - Thái Bình Dương Bjorn Andersson đánh giá, Việt Nam đã đạt được thành tích rất tốt trong việc giải quyết tình trạng ưa thích con trai và lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới trong suốt 15 năm qua.
Giám đốc Văn phòng Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) khu vực châu Á - Thái Bình Dương Bjorn Andersson UNFPA |
Nổi bật nhất, Việt Nam có nhiều mô hình hiệu quả, kể cả trong lĩnh vực xây dựng chính sách, sửa đổi pháp luật như Luật Dân số, Luật Bảo hiểm xã hội và các chương trình sáng tạo như chương trình Làm cha trách nhiệm.
Theo đó, những thành tích trên đã đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia kiểu mẫu phù hợp cho mục đích hợp tác Nam - Nam (hình thức hợp tác thúc đẩy phát triển hiệu quả thông qua học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm, thực tiễn và công nghệ giữa các nước đang phát triển).
Cũng tại Hội thảo, Thứ trưởng Bộ LĐ-TB-XH Nguyễn Thị Hà nhấn mạnh, tại Việt Nam, sự chênh lệch tỷ số giới tính khi sinh ở Việt Nam có xu hướng giảm, song vẫn còn ở mức cao.
Thứ trưởng Bộ LĐ - TB và XH Nguyễn Thị Hà UNFPA |
Năm 2021, tỷ số giới tính khi sinh ở Việt Nam là 112 bé trai/100 bé gái, và theo dữ liệu của Tổng cục Thống kê điều tra năm 2019, đến năm 2034 Việt Nam sẽ dư thừa 1,5 triệu nam giới tuổi từ 15 - 49 và tới năm 2059, con số này lên đến 2,5 triệu người (tương ứng với 9,5% dân số).
Để kiểm soát tỷ số giới tính khi sinh theo mục tiêu đề ra, Thứ trưởng Nguyễn Thị Hà cho biết, Việt Nam đã tăng cường hoàn thiện và thực thi các chính sách, pháp luật, triển khai nhiều giải pháp can thiệp nhằm giải quyết vấn đề này và thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp.
Trong đó đẩy mạnh các giải pháp liên quan đến tuyên truyền, vận động để thay đổi tư tưởng “trọng nam, coi thường nữ giới”, vốn cũng được đề cập tại Điều 5 của Công ước LHQ về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (Công ước CEDAW), theo đó các thành viên tham gia Công ước phải áp dụng mọi biện pháp thích hợp nhằm sửa đổi khuôn mẫu văn hóa, xã hội về hành vi của nam giới và nữ giới, nhằm đạt được việc loại trừ các thành kiến, phong tục, tập quán dựa trên tư tưởng cho rằng “giới này hơn, giới kia kém”, hoặc dựa trên những kiểu mẫu dập khuôn về vai trò của nam giới và nữ giới.
“Sự mất cân bằng giới tính khi sinh nếu không có sự can thiệp tích cực ngay từ bây giờ sẽ để lại những hệ lụy khôn lường cho sự phát triển bền vững của quốc gia, dân tộc và cũng tác động nghiêm trọng đến bất bình đẳng giới, đến sự tiến bộ và vị thế của người phụ nữ trong xã hội”, bà Hà nhấn mạnh.
Khoảng 140 triệu phụ nữ được cho là “bị thiếu hụt” trên khắp thế giới
Theo Giám đốc Văn phòng UNFPA khu vực châu Á - Thái Bình Dương, hiện nay có khoảng 140 triệu bé gái được cho là “không được sinh ra” trên khắp thế giới do tâm lý ưa thích con trai và lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới. Đây là biểu hiện phổ biến của bất bình đẳng giới và phân biệt giới tính.
Khoảng 140 triệu bé gái được cho là “không được sinh ra” trên khắp thế giới do tâm lý ưa thích con trai và lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới AFP |
Kể từ những năm 1990, một số khu vực đã chứng kiến tỷ lệ sinh con trai nhiều hơn đến 25% so với tỷ lệ sinh con gái.
"Sự gia tăng trong việc lựa chọn giới tính đang ở mức đáng báo động vì nó phản ánh sự đánh giá thấp vị thế của phụ nữ và trẻ em gái kéo dài liên tục. Dẫn đến kết quả là mất cân bằng giới tính đồng thời cũng có những tác động có hại đến xã hội. Ví dụ, các trường hợp bạo lực tình dục và buôn bán người gia tăng cũng do liên quan đến hiện tượng này", ông Andersson khẳng định.
Giám đốc Văn phòng UNFPA khu vực châu Á - Thái Bình Dương cho biết, trẻ em gái và phụ nữ thường xuyên bị hạ thấp giá trị. Họ tiếp tục phải đối mặt với sự phân biệt đối xử do vai trò và tiềm năng bị hạ thấp tới mức nhiều gia đình ở nhiều xã hội không chọn việc có con gái.
Trong khi đó, khả năng tiếp cận công nghệ sinh sản hiện đại, thực tế là một nhân tố tích cực, nhưng việc sử dụng công nghệ không đúng kèm với quan điểm phân biệt đối xử và thực hành có hại về giới. Đồng thời, với những tác nhân khác như di cư, đã làm cho các thực hành có hại càng trở nên phổ biến ở nhiều quốc gia.
Trong bối cảnh đó, ông Bjorn Andersson nêu rõ, UNFPA một lần nữa kêu gọi sự quan tâm hơn nữa và đẩy mạnh nỗ lực xây dựng các chính sách, dữ liệu, bằng chứng và thực hiện các chương trình nhằm chấm dứt mọi hình thức phân biệt đối xử trên cơ sở giới, bao gồm cả tâm lý ưa thích con trai và lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới.