vĐồng tin tức tài chính 365

Nên 'biện hộ' thế nào về chuyện tiền đồng bị định giá thấp?

2020-10-08 10:54

Nên 'biện hộ' thế nào về chuyện tiền đồng bị định giá thấp?

Phan Minh Ngọc

(TBKTSG) - Ngân hàng Nhà nước vừa tái khẳng định chưa và sẽ không bao giờ sử dụng công cụ chính sách tiền tệ như tỷ giá để tạo lợi thế cạnh tranh không công bằng trong giao dịch thương mại và quốc tế. Lời tái khẳng định này được đưa ra trong bối cảnh Mỹ gần đây đã xác quyết rằng tiền đồng đã bị định giá thấp hơn giá trị thật khoảng 4,7% trong năm 2019. Nhưng chỉ khẳng định thì chưa đủ, mà phải cho phía Mỹ thấy những bằng chứng.

Theo cáo buộc của Mỹ, việc định giá thấp này là kết quả của “hành động của Chính phủ Việt Nam lên tỷ giá” bằng việc đã mua 22 tỉ đô la Mỹ, gồm cả phần mua bởi Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Phía Mỹ tính toán rằng, hành động này của Việt Nam đã làm cho tỷ giá, ở mức danh nghĩa là 23.224 đồng/đô la năm 2019, thấp hơn khoảng 1.090 đồng so với tỷ giá hối đoái thực cân bằng.

Tuyên bố trên của NHNN là một hành động cần thiết để bảo vệ quyền lợi của Việt Nam trước lời cáo buộc của Mỹ (và của những đối tác khác, nếu có “hùa” theo). Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở sự khẳng định này, dù là tái khẳng định, dù có cương quyết, mạnh mẽ đến đâu mà không đưa ra những bằng chứng và thực tế khách quan thì hiệu quả của tuyên bố này có lẽ sẽ không có nhiều.

Để biện hộ hiệu quả thì, trong khi phải thừa nhận việc mua vào 22 tỉ đô la năm 2019 theo cáo buộc của Mỹ là một thực tế mà không thể, không nên phủ nhận, NHNN có thể làm nhẹ thực tế này bằng cách gắn kết nó với những nhu cầu, quyền lợi chính đáng của quốc gia.

Với mức chênh lệch lạm phát tương đối nhỏ giữa Việt Nam và Mỹ, tương ứng là 2,8% và 2,3% năm 2019, trong khi tỷ giá danh nghĩa hầu như không thay đổi, thì tính toán của Mỹ rằng tiền đồng đã bị định giá thấp hơn giá trị thật khoảng 4,7% trong năm 2019 là một điều khá bất ngờ và khó hiểu.

Trước hết, nếu có thể được thì cần đưa ra những số liệu thống kê để chứng minh sự tăng mạnh nguồn vốn nước ngoài, đặc biệt là vốn ngắn hạn (không phải là vốn FDI), mang tính đầu cơ - còn thường được biết đến dưới tên gọi “hot money” chảy vào nền kinh tế Việt Nam trong năm 2019, vốn có thể là kết quả trực tiếp và gián tiếp của thương chiến Mỹ - Trung.

Khi luồng tiền nóng dồn dập đổ vào một nền kinh tế, hậu quả tất yếu thường là sự lên giá mạnh của bản tệ mà nếu không kịp thời được can thiệp và kiểm soát thì sẽ tạo ra những tác động tiêu cực tới nền kinh tế bản địa.

Chẳng hạn như sự lên giá mạnh của bản tệ làm suy giảm trầm trọng tính cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ trong nước, đi kèm với sự căng phồng các bong bóng tài sản như chứng khoán và bất động sản mà sớm muộn cũng sẽ nổ vỡ.

Trước hậu quả nhãn tiền trên, phản ứng chính sách chính đáng, tiêu chuẩn sẽ là can thiệp và kiểm soát lưu chuyển vốn, không để cả tỷ giá thực lẫn tỷ giá danh nghĩa tăng quá mức có thể chấp nhận. Trên khía cạnh này, việc NHNN mua vào đô la Mỹ cần được chỉ ra rằng đây là một hành động tự vệ cần thiết.

Hơn nữa, việc mua vào đô la này của NHNN thực ra đã là “rất thận trọng”, rất chừng mực, khi nó không làm tỷ giá giữa tiền đồng và đô la Mỹ suy yếu đáng kể, mà hầu như là ổn định/đứng yên (thực tế, vào cuối năm 2019 tỷ giá danh nghĩa mới chỉ giảm có 0,11% so với đầu năm 2019).

Song song đó, Việt Nam cũng có thể biện hộ thêm rằng, với lịch sử nhiều năm phải trải qua những thăng trầm lớn về bất ổn vĩ mô gắn với sự mất giá của tiền đồng (so với đô la Mỹ) nên ưu tiên chính sách hàng đầu - rất chính đáng và có ý nghĩa ở/của Việt Nam - là ổn định tỷ giá (danh nghĩa). Hướng đến mục tiêu này, năm 2019 là một năm có thể được coi là thành công khi tỷ giá danh nghĩa hầu như không biến động/suy giảm, nhờ đó lạm phát của Việt Nam trong năm 2019 cũng được kiềm chế ở mức 2,8%.

Khi luồng tiền nóng dồn dập đổ vào một nền kinh tế, hậu quả tất yếu thường là sự lên giá mạnh của bản tệ mà nếu không kịp thời được can thiệp và kiểm soát thì sẽ tạo ra những tác động tiêu cực tới nền kinh tế bản địa...
...Trước hậu quả nhãn tiền trên, phản ứng chính sách chính đáng, tiêu chuẩn sẽ là can thiệp và kiểm soát lưu chuyển vốn, không để cả tỷ giá thực lẫn tỷ giá danh nghĩa tăng quá mức có thể chấp nhận.

Mục đích chính đáng bổ sung dự trữ ngoại hối vốn vẫn ở mức dưới chuẩn trước đó cũng là một yếu tố mà Việt Nam có thể sử dụng để bảo vệ mình trước cáo buộc của Mỹ.

Trên thực tế, dù Chính phủ Việt Nam có mua vào 22 tỉ đô la, nhưng phần lớn lượng ngoại tệ mua vào này chảy vào quỹ dự trữ ngoại hối của NHNN. Theo NHNN công bố, dự trữ ngoại hối đã tăng thêm 20 tỉ đô la trong năm 2019, đạt 79 tỉ đô la.

Như vậy, nếu không mua bổ sung trong năm 2019 thì dự trữ ngoại hối của Việt Nam đã tụt thấp hơn mức tối thiểu cần có cho dự trữ ngoại hối quốc gia theo khuyến cáo là ba tháng nhập khẩu (tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam năm 2019 theo công bố là 253,5 tỉ đô la).

Và tuy có mua vào thêm 20 tỉ đô la thì dự trữ ngoại hối của Việt Nam trong năm 2019 cũng mới chỉ tương đương 3,7 tháng nhập khẩu. Đây không phải là một con số quá lớn đến mức bất thường, không thể chấp nhận được.

Nhưng bên cạnh vấn đề tỷ giá, có lẽ điều mà Mỹ cũng rất xem trọng trong cáo buộc của họ là con số thâm hụt thương mại lớn (và tăng lên) của Mỹ với Việt Nam. Điều này tất yếu có một phần nguyên nhân không nhỏ là do nhiều doanh nghiệp nước ngoài gian lận xuất xứ hàng hóa của Việt Nam, nhưng suy cho cùng cũng bắt nguồn từ thương chiến Mỹ - Trung và các bất đồng thương mại giữa Mỹ với các đối tác khác.

Điều này tất nhiên là chẳng mấy có lợi gì cho Việt Nam, kể cả không xét đến cáo buộc của Mỹ. Vì vậy, cần nhìn nhận thẳng thắn vấn đề này với Mỹ và thể hiện những hành động cho thấy chúng ta đang và sẽ quyết liệt xử lý, ngăn ngừa, đồng thời qua đó chứng tỏ cho phía Mỹ thấy tỷ giá tiền đồng không phải nguồn cơn chính của tình trạng nhập siêu lớn của Mỹ với Việt Nam.

Sau cùng, việc Mỹ tính toán tỷ giá giữa tiền đồng và đô la Mỹ, lẽ ra phải yếu đi thêm 1.090 đồng/đô la, có một phần là do chênh lệch lạm phát giữa Mỹ và Việt Nam làm cho tiền đồng lên giá thực so với đô la Mỹ.

Tuy nhiên, với mức chênh lệch lạm phát tương đối nhỏ giữa Việt Nam và Mỹ, tương ứng là 2,8% và 2,3% năm 2019, trong khi tỷ giá danh nghĩa hầu như không thay đổi, thì tính toán của Mỹ rằng tiền đồng đã bị định giá thấp hơn giá trị thật khoảng 4,7% trong năm 2019 là một điều khá bất ngờ và khó hiểu. Việt Nam cần yêu cầu phía Mỹ giải thích cụ thể tính toán của họ để có cơ sở phản biện một cách hữu hiệu, chuẩn xác hơn.

Xem thêm: lmth.paht-aig-hnid-ib-gnod-neit-neyuhc-ev-oan-eht-oh-neib-nen/901903/nv.semitnogiaseht.www

Comments:0 | Tags:No Tag

“Nên 'biện hộ' thế nào về chuyện tiền đồng bị định giá thấp?”0 Comments

Submit A Comment

Name:

Email:

Blog :

Verification Code:

Announce

Tools