Ngày 13-12, Chủ tịch UBND tỉnh Bình Thuận Lê Tuấn Phong đã ký Quyết định quy định mức thu tiền sử dụng khu vực biển trên địa bàn tỉnh Bình Thuận giai đoạn 2021-2025 thuộc thẩm quyền giao khu vực biển của UBND tỉnh.
Theo đó, Quyết định này không áp dụng đối với việc sử dụng khu vực biển vào mục đích quốc phòng, an ninh; chỉ áp dụng cho các tổ chức, cá nhân được giao khu vực biển để khai thác, sử dụng tài nguyên biển; cơ quan quản lý nhà nước, cấp có thẩm quyền giao khu vực biển; các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan.
Một góc Hòn Cau nơi trước đây định nhấn chìm vật chất nạo vét gần đó nhưng bị hủy bỏ.
Đối với nhóm hoạt động khai thác, sử dụng khu vực biển để nhận chìm là 20.000 đồng/m3.
Đối với nhóm sử dụng khu vực biển để làm cảng biển, cảng nổi, cảng dầu khí ngoài khơi và các cảng, bến khác; làm vùng nước trước cầu cảng, vùng quay trở tàu, khu neo đậu, khu chuyển tải, luồng hàng hải chuyên dùng, các công trình phụ trợ khác; vùng nước phục vụ hoạt động của cơ sở sửa chữa, đóng mới tàu thuyền, xây dựng cảng tàu vận tải hành khách; vùng nước phục vụ hoạt động nhà hàng, khu dịch vụ vui chơi, giải trí, thể thao trên biển; khu neo đậu, trú nghỉ đêm của tàu thuyền du lịch; khai thác dầu khí; khai thác khoáng sản; trục vớt hiện vật, khảo cổ là 7,5 triệu đồng/ha/năm.
Đối với nhóm sử dụng khu vực biển để xây dựng cáp treo, các công trình nổi, ngầm, lấn biển, đảo nhân tạo, xây dựng dân dụng và các công trình khác trên biển là 7,5 triệu đồng/ha/năm.
Đối với nhóm sử dụng khu vực biển để xây dựng hệ thống đường ống dẫn ngầm, lắp đặt cáp viễn thông, cáp điện là 7,5 triệu đồng/ha/năm.
Riêng nhóm sử dụng khu vực biển để nuôi trồng thủy sản, xây dựng cảng cá là 4,5 triệu đồng/ha/năm và nhóm sử dụng khu vực biển để khai thác năng lượng gió, sóng, thủy triều, dòng hải lưu là 7,5 triệu đồng/ha/năm.
Đối với những hoạt động sử dụng khu vực biển chưa có quy định mức thu tiền sử dụng khu vực biển cụ thể, giao Sở TN&MT chủ trì, phối hợp với các sở, ngành và địa phương liên quan tham mưu UBND tỉnh xem xét, quyết định từng trường hợp cụ thể nhưng không thấp hơn 3 triệu đồng/ha/năm và không cao hơn 7,5 triệu đồng/ha/năm.
Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 20-12-2021.