Khoảng 4h30 ngày 12/11/2016, tại Anchorage, Alaska, sĩ quan cảnh sát Arn Salao nhận được cuộc gọi từ tài xế taxi về một hành khách bỏ đi mà không trả tiền cước.
Khi lái xe cảnh sát đến gần nơi tài xế báo cáo, Salao bắt gặp một người đàn ông đi trên đường ngược hướng với nơi phát ra cuộc gọi. Anh ta đội mũ len đen che đi mái tóc và mặc áo khoác rằn ri. Sĩ quan 38 tuổi bật đèn chớp và tấp vào ngay phía sau người đàn ông, xuống xe và yêu cầu dừng lại. Tuy nhiên, anh ta vẫn tiếp tục bước đi, thậm chí không quay đầu nhìn. Salao quay trở lại xe, vừa lái theo sau vừa lặp lại yêu cầu bằng loa.
Bỗng người đàn ông quay lại, bước thẳng tới xe của Salao, rút súng. Bị trúng 6 phát đạn, Salao lao ra khỏi xe tuần tra và bắn trả. Viên cảnh sát cố gắng vật lộn với kẻ nổ súng, tìm cách tước vũ khí khỏi tay hắn.
May thay, Salao không phải là người duy nhất trả lời cuộc gọi qua bộ đàm. Một xe tuần tra khác chạy đến hiện trường đúng lúc. Trung sĩ Marc Patzke của đơn vị K-9 phát hiện cuộc đối đầu, lập tức bước ra khỏi xe, nổ súng hạ gục. Kẻ tấn công tử vong tại chỗ. Salao được đưa đến bệnh viện và thoát khỏi nguy hiểm sau bảy tiếng phẫu thuật.
Khẩu súng bắn Salao được gửi đến phòng thí nghiệm, sau đó được xác nhận là khẩu Colt Python có liên quan 5 vụ giết người đang được điều tra. Kẻ nổ súng bí ẩn là James Ritchie, 40 tuổi.
Trước đó, từ tháng 7/2016, Anchorage, thành phố lớn nhất bang Alaska, liên tục xảy ra án mạng. Sáng 3/7/2016, hai thi thể được phát hiện bên vệ đường gần sông Ship Creek. Sau khi kiểm tra camera giám sát quanh khu vực, cảnh sát công bố hình ảnh của hai người đàn ông mà họ tin rằng có thể là nghi phạm.
Khoảng 3h ngày 29/7/2016, Treyveon-Kindell Thompson, 21 tuổi, bị bắn chết khi đạp xe đi làm qua rừng cây giữa đại lộ Duben và phố Bolin. Ba cô gái sống gần đó cho biết khi nhìn qua cửa sổ trước vụ việc, họ phát hiện một người cao lớn lảng vảng gần phố Bolin dưới ánh đèn đường, đứng yên quan sát rồi chui vào rừng. Khi nghe tiếng súng, các cô gái lại nhìn ra cửa sổ và thấy nạn nhân gục xuống. Sau đó, người nọ bước tới, chộp lấy chiếc xe đạp và phóng đi.
Video camera giám sát ghi lại hình ảnh kẻ sát nhân tiến về phía Thompson, giương súng. Qua phương pháp nhận dạng đạn đạo, cảnh sát xác định hung khí trong cả ba án mạng là khẩu Colt Python 357. Magnum Revolver, tuy nhiên chi tiết này không được công khai vì lo ngại hung thủ sẽ vứt bỏ súng nếu biết nó đang bị truy lùng.
Qua mô tả của các nhân chứng, cảnh sát tạo ra bản phác họa chân dung nghi phạm: người đàn ông cao hơn 1,8 m với khuôn mặt nhọn, đôi mắt trũng, má hơi hóp, mái tóc nâu dài ngang vai, mặc áo khoác rằn ri. Tuy nhiên suốt một tháng sau, cuộc điều tra không có tiến triển.
Ngày 28/8/2016, một thi thể nam thanh niên được phát hiện trên đường mòn trong công viên Valley of the Moon với nhiều vết đạn khắp cơ thể. Khi lục soát khu vực, cảnh sát tìm thấy một thi thể khác dưới gian hàng gần đó, cũng đầy vết đạn. Rất ít bằng chứng được để lại tại hiện trường.
Không lâu sau, các báo cáo y tế xác nhận rằng khẩu Colt Python cũng có liên quan đến hai vụ giết người này. Số nạn nhân của sát nhân bí ẩn, được đặt biệt danh "Sát thủ lúc nửa đêm", đã tăng lên 5 trong chưa đầy hai tháng.
Thi thể trong gian hàng được xác định là Kevin Turner, 34 tuổi, người vô gia cư có tiền sử bệnh tâm thần. Nam thanh niên trên đường mòn được xác định là nhà hoạt động môi trường 25 tuổi Bryant De Husson. Giữa hai nạn nhân không có mối liên hệ nào. Cảnh sát suy đoán Bryant đạp xe để đến gặp một người bạn vào đêm muộn. Trên đường, anh vô tình chứng kiến vụ sát hại Kevin và bị diệt khẩu.
Nhận định đang phải truy lùng một kẻ giết người hàng loạt mà không có nhiều manh mối, cảnh sát cảnh báo người dân Anchorage tránh xa những địa điểm vắng vẻ sau khi trời tối. FBI đưa ra phần thưởng 10.000 USD cho bất kỳ thông tin hữu ích nào về hung thủ.
Ngày 6/9/2016, thị trưởng thành phố Anchorage, Ethan Berkowitz, tổ chức họp báo để xoa dịu dân chúng, đồng thời đổ lỗi cho số vụ giết người ngày càng tăng là do bạo lực băng đảng, không đề cập đến khả năng có một kẻ giết người hàng loạt.
Hung thủ yên ắng trong hai tháng tiếp theo. Cho đến ngày 12/11/2016, nhà chức trách bất ngờ phá được án sau vụ nổ súng của James Ritchie vào cảnh sát Salao.
Sau 78 giờ điều tra và liên lạc với gia đình nạn nhân, Giám đốc Sở Cảnh sát Alaska Chris Tolley tổ chức họp báo công bố mối liên hệ giữa các vụ án mạng với vụ mưu sát sĩ quan Salao.
Theo nhà chức trách, khẩu Colt Python được mua vào năm 1971, không được đăng ký dưới tên James. Lần theo tung tích khẩu súng, cảnh sát xác nhận James đã mua lại nó trước khi hai án mạng đầu tiên xảy ra vào tháng 7/2016.
Ritchie được xác định là hung thủ giết Thompson, dựa trên lời khai của các nhân chứng, ảnh trên giấy tờ tùy thân của hắn cũng khớp với bản phác họa nghi phạm.
Ngày 26/4/2017, cảnh sát thông báo có đủ cơ sở để xác định James phải chịu trách nhiệm cho cả 5 vụ giết người.
James từng dính vào ma túy, bị bắt vài lần nhưng đều nhận mức án nhẹ. Năm 2005, hắn bị bắt khi đang đột nhập một ngôi nhà với còng tay bằng nhựa và hai khẩu súng lục. James nhận tội trộm cắp cấp độ một, bị phạt hai năm tù. Sau đó, James trở thành một công dân tuân thủ luật pháp, chỉ vi phạm một số lỗi giao thông. Khi loạt án mạng xảy ra, đội điều tra vốn không coi James là nghi phạm, do hắn không vi phạm pháp luật trong vòng 10 năm qua.
James từng tìm đến phương pháp điều trị sức khỏe tâm thần, nhưng cảnh sát không rõ liệu hắn có nhận được sự trợ giúp nào hay không. Sau khi gây án, dường như James không quan tâm đến việc bị bắt. Hắn mang xe đạp của Thompson về nhà, bày ra công khai trước nhiều người, nhưng chưa bao giờ bị kết nối với tội ác.
Thompson, nạn nhân thứ ba, là con trai của một người bạn thời niên thiếu của James. Không rõ liệu James có biết Thompson là ai khi bắn chết nạn nhân rồi lấy xe đạp.
Mẹ của Thompson từng tự điều tra hung thủ. Cô tuyên bố đã tìm thấy James, được trang bị khẩu Colt Python, gần Bệnh viện Anchorage vào tháng 10/2016. Cô báo cảnh sát nhưng được khuyên không nên tự mình đối đầu với nghi phạm.
Cái chết của James khiến động cơ gây án không bao giờ được hé lộ.
Tuệ Anh (Theo KTUU, Alaska Dispatch News)
Xem thêm: lmth.3850554-na-ib-nahn-tas-ar-mit-tas-hnac-puig-ogn-tab-gnus-on-uv/ten.sserpxenv