Ngày 13/12/2023, lần đầu tiên trong lịch sử các Hội nghị khí hậu của Liên Hợp Quốc, COP28 đã đạt được thỏa thuận kêu gọi các nước từ bỏ dần dần các loại nhiên liệu hóa thạch để tránh những hậu quả khủng khiếp nhất do biến đổi khí hậu.
Trên cơ sở các cam kết tại COP26, Chính phủ Việt Nam và Nhóm các Đối tác quốc tế đã chính thức thông qua Tuyên bố chính trị thiết lập Quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng với các đối tác quốc tế (JETP).
Tại diễn đàn “Tiềm năng phát triển thị trường điện khí tại Việt Nam" sáng 14/12, ông Tạ Đình Thi - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội cho rằng, để đạt được mục tiêu trên cơ sở cam kết nói trên, Việt Nam cần đẩy mạnh phát triển năng lượng tái tạo, nâng cao hiệu suất năng lượng và chú trọng chuyển đổi năng lượng.
Ông Thi cho rằng, Việt Nam cần đưa ra một lộ trình phù hợp, vừa bảo đảm mục tiêu bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, nhưng giảm tối đa gánh nặng chi phí, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế và giải quyết tốt các vấn đề xã hội.
Để tăng thêm nguồn điện nền, cân bằng và khai thác hiệu quả nguồn điện rất lớn từ năng lượng tái tạo, về việc sử dụng LNG cho mục tiêu năng lượng chung của đất nước, tổng công suất nguồn điện đến năm 2030 là 150.000 - 160.000MW, gấp đôi tổng công suất đặt ra hiện nay.
Quy hoạch điện VIII đã xác định nguồn nhiệt điện khí tái hóa từ LNG chiếm tỉ trọng khoảng hơn 14,9% tổng công suất toàn hệ thống phát điện quốc gia vào năm 2030 và là một trong các nguồn giúp đảm bảo cung cấp đủ, ổn định và an toàn hệ thống điện quốc gia. Tỉ trọng nhiệt điện than trong cơ cấu nguồn giảm từ gần 29% năm 2020 xuống 20,5% năm 2030.
Theo ông Thi, điện khí LNG có nhiều ưu điểm trong việc giảm phát thải khí CO2 và NOx ra môi trường (giảm khoảng 40% khí CO2 và khoảng 90% khí NOx so với các nhà máy nhiệt điện than và dầu).
Việc này góp phần quan trọng trong thực hiện mục tiêu bảo vệ môi trường, phát triển xanh hơn của ngành điện cũng như góp phần thực hiện cam kết về giảm phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 của Việt Nam.
“Tuy nhiên, việc chuyển dịch sang năng lượng xanh sạch, trong đó có phát triển điện khí LNG không dễ dàng, không thể thực hiện một sớm một chiều”, ông Thi nói.
Thực tế, các dự án LNG thường đòi hỏi nguồn vốn lớn lên tới hàng tỷ USD. “Hiện chúng ta phải nhập khẩu hoàn toàn loại nhiên liệu khí hóa lỏng, chiếm từ 70-80% giá thành điện năng sản xuất nhưng lại nhiều biến động, cũng chưa có bộ tiêu chuẩn kỹ thuật liên quan đến thiết kế, xây dựng và vận hành các cơ sở hạ tầng phục vụ nhập khẩu”, ông Thi cho hay.
Do đó, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội nhấn mạnh, phát triển điện khí LNG rất cần sự trao đổi, chia sẻ, lắng nghe giữa cơ quan quản lý Nhà nước, các doanh nghiệp, địa phương, các chuyên gia, nhà nghiên cứu để tiếp tục cụ thể hóa các hành động về chính sách và tổ chức thực hiện nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong sản xuất, nhập khẩu và kinh doanh khí, bảo đảm cân bằng thị trường, phát triển hạ tầng, hướng tới đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
Trong vấn đề phát triển điện khí, ông Tạ Đình Thi cho rằng cần đặc biệt quan tâm đến các vấn đề như công tác quy hoạch, huy động nguồn lực, cơ chế giá, giải phóng mặt bằng.
Trong đó bao gồm LNG nhập khẩu và sử dụng khí trong nước, các giải pháp bảo đảm phát triển hạ tầng điện khí tại Việt Nam, đảm bảo chuỗi cung ứng cho sản xuất điện khí (trong nước và nhập khẩu) hay vốn đầu tư, sử dụng đất, không gian biển, hiệu quả kinh tế - xã hội.
"Đặc biệt cũng cần quan tâm đến những khó khăn, vướng mắc, giải pháp đối với các dự án điện khí đang khó khăn, vướng mắc hiện nay", ông Thi nói.
Tại Việt Nam, nguồn điện trực tiếp đang chiếm 39,37%; điện gián tiếp chiếm 20,83%; thuỷ điện đa mục tiêu chiếm 11,02%; điện nhập khẩu chiếm 1,74%; năng lượng tái tạo chiếm 26,64% và các loại hình khác chiếm 4%.
TS. Chử Đức Hoàng – Chánh Văn phòng, Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia (Bộ KH&CN) cho rằng, với nguồn điện hiện nay thì trường hợp phát triển được điện khí, sẽ giúp hỗ trợ được nguồn năng lượng một cách chủ động. Dù vậy, theo ông Hoàng, thách thức để phát triển loại hình này là không nhỏ.
Đại diện Bộ KH&CN cũng thống kê 8 vấn đề trong phát triển điện khí tại Việt Nam hiện nay, gồm: thiếu quy hoạch, thiếu hạ tầng, nguồn cung bị phụ thuộc các nước trên thế giới, chưa có thị trường, chưa có phương án giá thành phù hợp, chịu tác động bởi biến đổi khí hậu, công nghệ bị hạn chế, khuôn khổ pháp lý hạn chế.
Đề xuất kiến nghị, ông Hoàng cho rằng, cần tăng cường sử dụng khí tự nhiên và LNG. Bên cạnh đó, đẩy mạnh đầu tư vào hạ tầng điện khí, xây dựng nhà máy đảm bảo công nghệ; xây dựng chính sách hỗ trợ và khung pháp lý, nhất là làm sao tính giá và cân đối giá cả cho phù hợp để thu hút được nguồn lực trong nước và quốc tế.
Vị chuyên gia cũng kiến nghị đổi mới công nghệ, chấp nhận chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam khi phát triển loại hình này. Cùng đó, kêu gọi nguồn vốn và hợp tác quốc tế để tạo ra thị trường điện khí minh bạch.