Trong 11 tháng, xuất khẩu than thu về 211,3 triệu USD
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu than của Việt Nam trong tháng 11 đạt 141.216 tấn, tương đương 35,3 triệu USD, tăng 44,2% về lượng và tăng 33,5% về trị giá so với tháng trước. So với tháng 11/2022, xuất khẩu than tháng này tăng 60,5% về lượng và tăng 9,3% về giá trị.
Lũy kế 11 tháng đầu năm, xuất khẩu than đạt 673.658 tấn, tương đương 211,3 triệu USD, giảm 41,2% về lượng và giảm 46,3% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.
Đáng chú ý trong tháng 5/2023, giá than xuất khẩu đã lập đỉnh trong giai đoạn 2020 đến nay với 419 USD/tấn. Tuy nhiên giá mặt hàng này lại liên tiếp lao dốc, chỉ đạt 250 USD/tấn vào tháng 11, mức thấp nhất kể từ đầu năm. Bình quân 11 tháng năm 2023, giá than xuất khẩu ở mức 313,6 USD/tấn, giảm 8,7% so với cùng kỳ năm 2022.
Về thị trường, Nhật Bản vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của than Việt Nam, chiếm 50,4% về lượng và 49% về kim ngạch trong tổng lượng xuất khẩu 11 tháng năm 2023. Đứng phía sau lần lượt là Nam Phi và Hà Lan.
Xuất khẩu than sang các thị trường chính vẫn chứng kiến mức giảm sâu, tuy nhiên, Philippines lại đang đẩy mạnh mua mặt hàng này của Việt Nam trong những tháng qua.
Cụ thể, xuất khẩu than vào thị trường này trong 11 đạt 27,5 nghìn tấn, kim ngạch đạt 6,2 triệu USD. Trong khi đó, tháng 11 năm 2022, quốc gia này không thực hiện hoạt động nhập khẩu.
Tính chung 11 tháng năm 2023, Việt Nam xuất khẩu sang Philippine 55.219 tấn than các loại, tương đương 12,6 triệu USD, tăng đột biến 27.500% về lượng và 15.400% về kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái. Sản lượng nhập khẩu trong 11 tháng năm 2023 đã gấp 114 lần tổng lượng cả năm 2022.
Tỷ trọng xuất khẩu than các loại sang Philippines chỉ chiếm 8,2% về lượng và 6% về kim ngạch. Tuy nhiên đây là thị trường này đã có sự tăng trưởng mạnh nhất trong 11 tháng năm 2023.
Bên cạnh đó, giá xuất khẩu bình quân 11 tháng sang thị trường này chỉ đạt 229 USD/tấn, giảm mạnh 43,8% so với cùng kỳ năm 2022.
Theo Tổng cục Thống kê, trữ lượng than đá tại Việt Nam có khoảng 50 tỷ tấn. Quảng Ninh là mỏ than quan trọng bậc nhất tại Việt Nam. Các mỏ than tại đây bắt đầu được đưa vào khai thác từ năm 1839. Trữ lượng lên tới 8.7 tỷ tấn cùng vị trí sát biển thuận tiện cho việc vận chuyển than đến thị trường quốc tế đã giúp cho Quảng Ninh trở thành khu vực khai thác than hàng đầu cả nước.
Năm 2022, ngành than xuất khẩu được 1,2 triệu tấn, với trị giá 411 triệu USD; tuy nhiên lượng nhập khẩu về lên tới 31,9 triệu tấn, trị giá 7,16 tỷ USD. Nguyên nhân là than xuất khẩu chủ yếu phục vụ sản xuất thép, trong khi trong khi nhu cầu trong nước là sản xuất nhiệt điện, thông tin trên Công Thương.
Cần đảm bảo cung ứng đủ than cho sản xuất điện năm 2024
Theo báo cáo của Bộ Công Thương, lũy kế đến hết tháng 11 năm nay, sản lượng điện toàn hệ thống đạt trên 257 tỷ kWh, trong đó tỉ lệ huy động các nguồn điện như thủy điện chiếm gần 30%, nhiệt điện than chiếm gần 45,7%, năng lượng tái tạo là 13,5%, tua bin khí là gần 10%... Như vậy, nhiệt điện than và thủy điện vẫn đang là những nguồn điện chính để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt và sản xuất.
Dự kiến cả năm nay, các nhà máy nhiệt điện trên cả nước tiêu thụ khoảng 70 triệu tấn than. Để đảm bảo đủ nguồn cung than cho sản xuất điện trong giai đoạn tới, nhiều giải pháp đang được ngành than tính tới.
Thông tin trên VTV hiện nay, Công ty CP Than Cao Sơn, Tập đoàn Công nghiệp Than, Khoáng sản Việt Nam đang nỗ lực đẩy cao nhịp độ sản xuất, hoàn thành chỉ tiêu khai thác 3,5 triệu tấn than của cả năm 2023. Theo đại diện doanh nghiệp, năm 2024 để nâng công suất khai thác thêm 10% theo kế hoạch được giao sẽ là thách thức lớn.
Bộ Công Thương dự báo, năm 2024, trên cả nước sản lượng than cần đủ cho sản xuất điện ước khoảng trên 74 triệu tấn, như vậy để đảm bảo nguồn cung than cho sản xuất điện, việc tháo gỡ khó khăn, nâng sản lượng khai thác là yêu cầu đặt ra.
"Với công nghệ hiện nay, chúng tôi hoàn toàn đáp ứng được từ 14 - 15 triệu, nhưng sản lượng hiện nay tập đoàn đang giao là trên 12 triệu tấn, do vậy năng lực vẫn đang dư thừa, đặc biệt là vấn đề công nghệ thì chúng tôi đáp ứng được tất cả các đơn hàng khó tính nhất trên thế giới", ông Nguyễn Quang Hưng, Phó Giám đốc Công ty Tuyển Than Cửa Ông, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, cho biết.
"Ủy ban cũng đã chủ động phối hợp với Bộ Công Thương, Bộ Tài nguyên và Môi trường, đặc biệt là với Cục Khoáng sản để tìm các giải pháp tháo gỡ khó khăn, trên cơ sở đó tạo điều kiện thuận lợi nâng công suất khai thác than phục vụ phát triển kinh tế - xã hội" ông Hồ Công Trung, Phó Vụ trưởng Vụ năng lượng, Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, cho hay.
Nhằm đảm bảo đủ than cho sản xuất điện, Bộ Công Thương yêu cầu các đơn vị liên quan thường xuyên cập nhật kế hoạch cung cấp điện và vận hành hệ thống điện quốc gia để kịp thời điều chỉnh kế hoạch chuẩn bị nguồn than; đảm bảo cung cấp đủ, ổn định than cho hoạt động của nhà máy trong suốt thời gian tồn tại với giá than cạnh tranh và hiệu quả. Trong mọi trường hợp không được để đứt gãy nguồn cung ứng than và thiếu than cho sản xuất điện.
Theo dự báo của Bộ Công Thương, năm 2024, tổng điện năng sản xuất của các nhà máy điện và nhập khẩu của toàn quốc là trên 306 tỷ kWh, bám sát mục tiêu tăng trưởng kinh tế - xã hội năm 2024. Trong đó, các nguồn điện than, thủy điện và nguồn điện tuabin khí vẫn đóng vai trò quan trọng.
Các nguồn năng lượng tái tạo sẽ tiếp tục được huy động theo nhu cầu phụ tải điện và khả năng hấp thụ của lưới điện. Ngoài ra, Bộ Công Thương xác định, việc thực hiện các chương trình về quản lý nhu cầu điện và sử dụng điện tiết kiệm, hiệu quả cũng là một giải pháp rất quan trọng nhằm đảm bảo cung cấp điện năm 2024 và các năm tiếp theo.
Ngành than quyết tâm sản xuất gần 39 triệu tấn than
Mới đây, đại diện lãnh đạo Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) chia sẻ với TTXVN, trong điều kiện khó khăn ngày càng khai thác xuống sâu, dự kiến năm 2024, Tập đoàn sẽ sản xuất 38,74 triệu tấn than, tiêu thụ 50 triệu tấn than; sản lượng phát điện tối thiểu 10,5 tỷ kWh.
Cụ thể về khoáng sản, hóa chất, Tập đoàn sản xuất 8.215 tấn kẽm thỏi, 107.080 tấn tinh quặng đồng, 202.501 tấn tinh quặng sắt và 1.300 nghìn tấn alumin. Tiền lương bình quân toàn Tập đoàn dự kiến đạt 15,478 triệu đồng/người/tháng...
Để hoàn thành kế hoạch đã đề ra vào năm 2024, Tổng giám đốc TKV Đặng Thanh Hải cho hay: Tập đoàn sẽ thực hiện các giải pháp chỉ đạo, điều hành; tập trung đẩy mạnh phát triển các mỏ than hầm lò sản lượng lớn theo tiêu chí “Mỏ xanh, mỏ hiện đại, mỏ sản lượng cao”, tiếp tục chuẩn hoá, nâng cấp các kho cảng dịch vụ logistic phục vụ cho việc xuất nhập khẩu, pha trộn than.
Song song với đó, Tập đoàn thực hiện khoan thăm dò, đánh giá trữ lượng than nhằm chuẩn bị cơ sở tài nguyên tin cậy cho sự phát triển ổn định, lâu dài của ngành về phát triển các dự án than, khoáng sản; đẩy nhanh tiến độ thực hiện và hoàn chỉnh các thủ tục liên quan để sớm khởi công một số dự án.
Bên cạnh đó, TKV tổ chức chuẩn bị dự án phát triển mỏ than, dự án cảng biển; tiếp tục duy trì, xây dựng mới các nhà máy, trung tâm sàng tuyển, chế biến than tập trung. Từ đó, nâng cao năng lực sàng tuyển, chế biến cung cấp than phục vụ phát triển kinh tế; đầu tư các dự án mới, các dự án đầu tư đào lò, duy trì sản xuất để phục vụ khai thác xuống sâu, nâng cao chất lượng than với mục tiêu nhằm đáp ứng các chủng loại than theo yêu cầu của thị trường.
TKV cũng đẩy mạnh ứng dụng cơ giới hóa, tự động hóa, tin học hóa vào sản xuất và quản lý nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh; nâng cao mức độ an toàn, cải thiện môi trường, nâng cao năng lực vận tải, năng suất, thu nhập cho người lao động, tăng thời gian lao động hữu ích để giảm chi phí.... Ngoài ra, TKV tiếp tục đầu tư nhằm cải thiện điều kiện, môi trường làm việc cho người lao động, tăng năng suất lao động, nâng cao thu nhập cho người lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của Tập đoàn.
Theo Tổng giám đốc Đặng Thanh Hải, năm 2023 được đánh giá là một năm tiếp tục thành công của Tập đoàn trong thực hiện các giải pháp đồng bộ, linh hoạt và quyết liệt sản xuất.
Theo đó, doanh thu toàn Tập đoàn ước đạt 170 nghìn tỷ đồng, đạt 100,3 % kế hoạch, tương đương so với thực hiện năm 2022; nộp ngân sách Nhà nước gần 29 nghìn tỷ đồng, tăng 8,5 nghìn tỷ đồng so với kế hoạch, tăng 27,5% so với năm 2022. Đây là số tiền nộp nộp ngân sách nhà nước cao kỷ lục của Tập đoàn kể từ khi thành lập đến nay, đóng góp vào tăng trưởng GDP chung cho cả nước.
Trong năm 2023, TKV đã sản xuất 39,04 triệu tấn than thành phẩm, đạt 101% kế hoạch năm; tiêu thụ 47,8 triệu tấn than, đạt 102,8% kế hoạch năm và bằng 101,7% so với năm 2022. Riêng than cung cấp cho các hộ điện là 39,85 triệu tấn, đạt 103,4% kế hoạch năm và bằng 113,9%. Tập đoàn đã nhập khẩu 9,2 triệu tấn than, tăng 90,9% so với năm 2022.
Cũng theo TKV, năm 2023, Tập đoàn đã cơ bản thực hiện các chỉ tiêu chính theo mục tiêu kế hoạch đã đề ra, cung cấp kịp thời và đủ than cho các Nhà máy điện mà TKV đã ký hợp đồng.
Trúc Chi (t/h)