Tại Diễn đàn thường niên về quản trị công ty lần thứ 6 do Viện Thành viên hội đồng quản trị Việt Nam (VIOD) và Báo Đầu tư đồng tổ chức vào tháng 12/2022, bà Hà Thu Thanh, Chủ tịch Deloitte Việt Nam nhận định, ngày càng nhiều doanh nghiệp đã và đang tiếp tục nỗ lực trong việc giảm thải khí các-bon và rác thải, sử dụng nguồn đầu vào có trách nhiệm xã hội, nhằm đáp ứng các tiêu chí ESG đang trở nên quan trọng trong mắt nhà đầu tư và người tiêu dùng.
Cuối năm 2022, Công ty cổ phần Nông nghiệp BaF Việt Nam được IFC đồng ý giải ngân khoản đầu tư 900 tỷ đồng để phát triển chuỗi chăn nuôi khép kín mô hình 3F.
Các doanh nghiệp nỗ lực triển khai sớm ESG bước đầu có lợi thế. Cuối năm 2022, CTCP Nông nghiệp BaF Việt Nam (mã BAF) được Công ty Tài chính Quốc tế (IFC) đồng ý giải ngân khoản đầu tư 900 tỷ đồng để phát triển chuỗi chăn nuôi khép kín mô hình 3F. Công ty Tư vấn Quốc tế (CIB) cho rằng, để huy động được khoản đầu tư trên từ IFC, BAF không những phải đảm bảo các chỉ số tài chính, mà doanh nghiệp còn phải đáp ứng được những tiêu chí khắt khe về ESG.
Từ nhiều năm trước, ban lãnh đạo của Công ty cổ phần Sữa Việt Nam - Vinamilk (mã VNM) cũng sớm nhận ra việc thực hành ESG mang đến nhiều cơ hội hơn, từ những lợi ích về tài chính như mở rộng cơ hội thu hút vốn đầu tư hay những giá trị kinh tế lâu dài như duy trì hoạt động kinh doanh bền vững, đảm bảo uy tín và nâng cao thương hiệu doanh nghiệp.
Trong quá trình triển khai, nhiều nội dung Công ty phải thay đổi, làm mới và đầu tư, nhất là về quy trình và con người. Vinamilk nhận ra rằng, trong bối cảnh kinh doanh chung, ESG không còn là lựa chọn mà trở thành yếu tố quyết định sự sống còn của doanh nghiệp.
Ngân hàng Standard Chartered Việt Nam nhận định, ngày càng nhiều nhà cung cấp của các doanh nghiệp đa quốc gia được cho vay hay thế chấp với lãi suất rẻ hơn nếu họ chứng minh được hoạt động ESG bằng dữ liệu, số liệu rõ ràng. Mọi sản phẩm ngân hàng này đưa ra trên thị trường đều đang được xem xét ở góc độ bền vững.
Để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng và mở rộng thị trường, các doanh nghiệp buộc phải thay đổi theo xu hướng này. Nếu chậm trễ, doanh nghiệp sẽ khó bán hàng cho các thị trường chủ lực như Mỹ, EU, đồng thời tự đánh mất khả năng cạnh tranh và mở rộng thị trường trong tương lai.
Dệt may là một trong những nhóm hàng xuất khẩu chủ lực, chiếm khoảng 12% tổng kim ngạch xuất khẩu chung của Việt Nam. Trong chiến lược phát triển của ngành, Hiệp hội Dệt may Việt Nam đặt ra kế hoạch xanh hóa đến năm 2023, giảm 15% tiêu thụ năng lượng, 20% tiêu thụ nước; đến năm 2030, chuyển đổi “xanh hóa” ngành dệt may Việt Nam.
Trước yêu cầu ngày càng cao và mang tính bắt buộc trên toàn cầu, nhiều doanh nghiệp trong nước đã bắt đầu chuyển đổi sản xuất theo hướng “xanh hóa”. Công ty cổ phần Dệt may Đầu tư Thương mại Thành Công (mã TCM) đã đầu tư phòng Lab để nghiên cứu nguyên liệu xanh và ứng dụng nghiên cứu vào các sản phẩm thời trang một cách hiệu quả nhất. Bên cạnh đó, Thành Công cũng thành lập trung tâm nghiên cứu và phát triển kinh doanh để phát triển 3 dòng sản phẩm chính, gồm sản phẩm thân thiện với môi trường, sản phẩm tính năng theo mùa và dòng sản phẩm tiện dụng cho cuộc sống.
Cùng chung quan điểm, Công ty cổ phần May Sông Hồng (mã MSH) đã nghiên cứu lắp đặt lắp đặt pin năng lượng trên mái nhà cho toàn bộ hệ thống lên tới hơn 20 xưởng sản xuất được xây dựng và quản lý tập trung trong phạm vi tỉnh Nam Định. Nhà xưởng Sông Hồng 7 và Sông Hồng 10 là hai dự án điện áp mái đầu tiên đã đi vào hoạt động trong hành trình xanh hoá nguồn năng lượng sản xuất của May Sông Hồng.
Liên quan đến vấn đề “xanh hóa” ngành thủy sản, ông Trương Đình Hòe - Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết, chuyển đổi xanh trong ngành thủy sản có 3 mục tiêu cốt lõi, bao gồm: mở rộng mô hình nuôi trồng thủy sản bền vững; quản lý hiệu quả tất cả nghề cá và nâng cấp các chuỗi giá trị trong hệ thống thức ăn thủy sản.
TS. Hồ Quốc Lực, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Thực phẩm Sao Ta (mã FMC) lưu ý thêm, để chuyển đổi xanh, các doanh nghiệp trong chuỗi phải xanh đồng bộ. Các doanh nghiệp cung ứng con giống, thức ăn, chế phẩm nuôi, các cơ sở nuôi đều phải có tiêu chí cụ thể để thực hiện và thống nhất trong cả chuỗi. Nếu đáp ứng được đòi hỏi này chắc chắn sẽ tăng sức cạnh tranh mạnh mẽ cho ngành thủy sản Việt Nam.