Mobile Money: lợi nhuận hay nhân sinh?
TS. Võ Đình Trí (*)
(KTSG) - Ngày 9-3-2021, Thủ tướng Chính phủ đã chính thức ban hành quyết định phê duyệt việc triển khai thí điểm dùng tài khoản viễn thông thanh toán cho các hàng hóa, dịch vụ có giá trị nhỏ (Mobile Money). Với những người đang sống ở các đô thị, thành phố lớn thì thông tin này hầu như không có giá trị gì vì họ đang có nhiều giải pháp khác tiện lợi hơn.
Nhưng đối với những người ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là người nghèo, thì đây là điều có thể giúp thay đổi đáng kể cuộc sống của họ.
Mobile Money đã mang lại nhiều lợi ích cho những người đang bị đứng bên lề của các dịch vụ tài chính. Ảnh: HOÀNG TÂN |
Mobile Money bắt đầu ở Kenya vào năm 2007, và có sự phát triển đáng kể ở các nước nghèo hay đang phát triển trong vòng 10 năm qua. Trong một báo cáo công bố vào tháng 3-2020, Tổ chức GSMA (Global System for Mobile Communications) cho biết tại thời điểm đó, cả thế giới đã đạt con số 1 tỉ tài khoản người dùng, với giá trị giao dịch hàng ngày là 2 tỉ đô la Mỹ. Thị trường lớn nhất là Ấn Độ, ước tính đạt 1.000 tỉ đô la Mỹ vào năm 2023.
Và mục đích chính của Mobile Money là cung cấp những dịch vụ tài chính cơ bản như thanh toán, chuyển/nhận tiền, tiết kiệm, bảo hiểm... cho những người không có cơ hội tiếp cận chúng vì họ ở những vùng sâu, vùng xa, nông thôn hẻo lánh. Điển hình của sự phát triển Mobile Money là ở các nước châu Phi, nhất là vùng hạ - Sahara, và Ấn Độ.
Mảng kinh doanh Mobile Money thật sự không hấp dẫn nếu doanh nghiệp không có những lợi thế vượt trội hay tạo được một hệ sinh thái sử dụng đòn bẩy giữa nhiều dịch vụ khác nhau. |
Kể từ năm 2014, Chính phủ Ấn Độ đã quyết tâm phát triển Mobile Money, nhằm phủ sóng các dịch vụ tài chính cơ bản cùng với sóng điện thoại. Tuy vậy, vẫn còn khoảng 200 triệu người Ấn Độ chưa tiếp cận được các dịch vụ ngân hàng (unbanked population).
Dưới cái nhìn của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, ở đây chủ yếu là các nhà mạng, thì Mobile Money là một thị trường rất lớn nhưng lợi nhuận trên một khách hàng lại là rất thấp.
Cũng theo báo cáo đã đề cập ở trên, chỉ có 60% các doanh nghiệp trong lĩnh vực này có EBITDA (lợi nhuận trước lãi, thuế, và khấu hao) lớn hơn 0. Cũng cần biết rằng đây là con số không bị lỗ, không loại trừ khả năng cao là lợi nhuận rất hạn chế. Một tên tuổi lớn trong mảng Mobile Money ở Ấn Độ là Paytm được thành lập từ năm 2010 nhưng đến năm 2019 mới bắt đầu biết đến điểm hòa vốn và lợi nhuận.
Không những thế, mô hình kinh doanh Mobile Money thường phải trải qua giai đoạn khởi nghiệp trong 1-2 năm đầu, phát triển ở năm thứ 4, 5 rồi mới được ổn định từ đó trở đi. Mảng Mobile Money có cấu trúc chi phí không giống các dịch vụ truyền thống như cuộc gọi, tin nhắn, dung lượng (data), các dịch vụ giá trị gia tăng.
Theo đó, Mobile Money thuộc mảng kinh doanh OPEX (chi phí hoạt động là chính), chủ yếu là chi hoa hồng cho các đại lý là các điểm giao dịch, chi phí tiếp thị, và chi phí nhân sự. Trong đó, chiếm phần lớn nhất là chi phí hoa hồng đại lý cho việc nhận tiền (cash-in) và chi tiền (cash-out). Thống kê cho thấy có khi khoản chi phí này chiếm đến 40-80% doanh thu.
Mobile Money đã mang lại nhiều lợi ích cho những người đang bị đứng bên lề của các dịch vụ tài chính, hỗ trợ hiệu quả cho các chương trình tài chính vi mô (micro-finance), bảo hiểm vi mô (micro-insurance), và đây cũng là vấn đề lớn mà chương trình tài chính bao trùm (financial inclusion) đang hướng đến, là một trong các mục tiêu phát triển bền vững. Giải pháp này cũng tăng hiệu quả trong việc tiếp cận các dịch vụ thiết yếu như điện, nước của người dân ở vùng nông thôn, tăng sự tiện lợi và giảm chi phí quản lý thanh toán của doanh nghiệp.
Phát triển chương trình Mobile Money cần sự chung tay hỗ trợ của các chính phủ, các quỹ từ thiện, hay các quỹ đầu tư, như cách mà quỹ Bill&Melinda Gates và quỹ đầu tư Flourish đã làm. |
Một lợi ích khác cũng đáng kể của Mobile Money là việc trợ giúp tiền mặt trong trường hợp người nhận không có tài khoản ngân hàng. Nhiều hoàn cảnh khó khăn ở vùng sâu, vùng xa cần giúp đỡ khẩn cấp nhưng lại không có phương thức để nhận sự giúp đỡ.
Trong trường hợp có Mobile Money, chỉ cần người cần nhận có một số điện thoại di động, dù chỉ 2G, cũng có thể nhận được sự giúp đỡ dễ dàng hơn rất nhiều. Có những trường hợp người cần trợ giúp là người nhập cư, người tỵ nạn không có giấy tờ thì Mobile Money là một giải pháp.
Một bộ phận doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ cũng có thể thông qua Mobile Money để đa dạng hóa việc chấp nhận thanh toán của mình. Thử hình dung du khách hay một ai đó đến một vùng xa xôi hẻo lánh, cần mua một loại hàng hóa hay dịch vụ gì đó nhưng không có tiền mặt, nơi đó lại không có máy rút tiền tự động (ATM) thì với dịch vụ Mobile Money, cả người bán và người mua đều sẽ rất hài lòng.
Nhưng không chỉ ở các nước nghèo, vùng nông thôn hẻo lánh mới cần phát triển Mobile Money. Hiện nay nhiều thành phố ở một số nước phát triển, người dân hay khách du lịch có thể mua vé xe buýt, tàu điện ngầm, trả tiền đậu xe thông qua tin nhắn, tiền sẽ bị trừ (thuê bao trả trước) hay thêm vào hóa đơn của kỳ sau (thuê bao trả sau). Mặc dù đã có nhiều tiện ích thanh toán trên một cái điện thoại thông minh nhưng việc thanh toán qua tin nhắn cũng cho thấy ưu điểm vượt trội của mình vì sự tiện lợi.
Những phân tích ở trên cho thấy mảng kinh doanh Mobile Money thật sự không hấp dẫn nếu doanh nghiệp không có những lợi thế vượt trội hay tạo được một hệ sinh thái sử dụng đòn bẩy giữa nhiều dịch vụ khác nhau. Nhưng những lợi ích của Mobile Money mang lại cho những người nghèo, những người ở vùng sâu, vùng xa không có cơ hội tiếp cận các dịch vụ tài chính cơ bản là không thể chối cãi.
Nếu cứ để nguyên tắc thị trường chi phối thì nhóm yếu thế này sẽ bị bỏ lại phía sau. Chính vì vậy, phát triển chương trình Mobile Money cần sự chung tay hỗ trợ của các chính phủ, các quỹ từ thiện, hay các quỹ đầu tư, như cách mà quỹ Bill & Melinda Gates và quỹ đầu tư Flourish đã làm. Một chương trình vị xã hội, vị nhân sinh thì khó đặt tiêu chí lợi nhuận lên hàng đầu được.
(*) Trường Đại học Kinh tế TPHCM, IPAG Business School Paris, và AVSE Global
Xem thêm: lmth.hnis-nahn-yah-nauhn-iol-yenom-elibom/406413/nv.semitnogiaseht.www