Ngày 10-5, TAND TP Hà Nội xét xử cựu Chủ tịch UBND tỉnh Bình Thuận Nguyễn Ngọc Hai và 10 đồng phạm trong vụ án giao đất giá rẻ gây thiệt hại 45 tỉ đồng.
Trả lời HĐXX, bị cáo Nguyễn Ngọc Hai thừa nhận diễn biến việc giao đất cho Công ty Tân Việt Phát đúng như cáo trạng đã nêu.
Mặc dù nhận tội nhưng ông Hai cho rằng bản thân còn ''băn khoăn'' về phần đánh giá mức độ hành vi. Ông Hai cho rằng không quen biết Công ty Tân Việt Phát, quá trình giao đất, bị cáo không chỉ đạo, tác động việc này.
Cựu Chủ tịch UBND tỉnh Bình Thuận Nguyễn Ngọc Hai. Ảnh: BT |
Theo ông Hai, sau khi Công ty Tân Việt Phát có văn bản đề nghị được giao đất, các cơ quan chức năng của tỉnh xử lý ban đầu, quá trình này bị cáo không nắm được thông tin, các cơ quan như Sở Tài chính, Sở TN&MT chỉ cần trình Phó Chủ tịch tỉnh phụ trách.
Sau khi có đầy đủ ý kiến tham mưu của các bộ phận thì Văn phòng UBND tỉnh mới trình bị cáo. Hồ sơ trình gồm bản dự thảo văn bản 571 và hồ sơ tài liệu của sở, ban ngành chuyên môn.
Quá trình giao đất cho Công ty Tân Việt Phát, bị cáo chỉ ký ban hành văn bản 571 đồng ý chủ trương giao đất không qua đấu giá, giá áp dụng theo Quyết định 2423 của UBND tỉnh.
Bị cáo ký ban hành văn bản dựa trên hồ sơ giải quyết công việc do Văn phòng UBND tỉnh trình, gồm có phiếu trình công việc, hồ sơ các cơ quan chức năng gửi kèm theo, tờ trình của cấp dưới, có ý kiến đồng thuận của các phó chủ tịch, đề xuất của Sở TN&MT, Sở Tài chính, căn cứ quy định pháp luật.
Năm 2016, giá đất ở tỉnh Bình Thuận thực tế có biến động theo chiều hướng tăng giá nên bị cáo đã ký Quyết định 23 điều chỉnh hệ số đất căn cứ vào diễn biến thị trường.
Bị cáo Hai khai Công ty Tân Việt Phát chỉ đề nghị giao đất không qua đấu giá, không đề nghị về giá đất nhưng bị cáo căn cứ Luật Đất đai, Quyết định số 10 về việc xử lý trong trường hợp đấu giá không thành để áp giá theo Quyết định 423 năm 2013 phê duyệt giá khởi điểm.
Khi có dư luận về giá đất giao cho Công ty Tân Việt Phát, bị cáo gặp và trực tiếp chỉ đạo ông Nguyễn Văn Phong, Giám đốc Sở Tài chính rà soát về quy trình và giá. Sau đấy, Giám đốc Sở Tài chính có văn bản báo cáo trả lời là việc giao đất phù hợp.
Đến bây giờ, bị cáo nhận thấy giá giao đất là trái quy định, khi các văn bản quy phạm pháp luật có nội dung chưa đồng nhất thì về quy tắc phải áp dụng văn bản pháp lý cao hơn, ở đây là Luật Đất đai.
Cáo trạng truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc Hai là Chủ tịch UBND tỉnh Bình Thuận, chịu trách nhiệm quản lý về đất đai trên địa bàn tỉnh. Khi giao 92.000m2 đất ở TP Phan Thiết cho Công ty Tân Việt Phát không qua đấu giá năm 2017, bị cáo đã áp dụng giá đất phê duyệt năm 2013 trái quy định gây thiệt hại cho Nhà nước.
Hành vi của bị cáo phạm vào tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí với vai trò chính.
Cựu Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bình Thuận Lương Văn Hải. Ảnh: BT |
Tương tự, bị cáo Lương Văn Hải, cựu phó chủ tịch UBND tỉnh Bình Thuận cũng khai không quen biết gì Công ty Tân Việt Phát, không được hưởng lợi gì từ việc giao đất cho công ty.
Bị cáo đã ký Quyết định 610 về việc thu hồi và giao đất đối với 92.000m2 để giao cho Công ty Tân Việt Phát. Theo bị cáo, việc ký quyết định này là do phân công nhiệm vụ của phó chủ tịch và theo chủ trương mà chủ tịch tỉnh đã ban hành. Khi ký thì bị cáo không cần phải báo cáo cấp trên vì đây là phân cấp.
Ông Hải khai việc ký các văn bản giao đất chỉ vì mục đích phát triển dự án, phát triển KT-XH địa phương, thu ngân sách.
Trong quá trình điều tra, vợ bị cáo đã nộp 500 triệu đồng để khắc phục hậu quả vụ án. Tuy nhiên, tại phiên tòa, bị cáo cho rằng bị cáo đã làm đúng chức trách nhiệm vụ nên không phải bồi thường.
Theo cáo buộc, năm 2017, Công ty Tân Việt Phát được giao 92.000m2 đất ở TP Phan Thiết với giá giao đất là 111 tỉ đồng.
Các bị cáo là lãnh đạo UBND, sở, ngành… của tỉnh Bình Thuận đã áp giá đất từ năm 2013 thay vì áp dụng giá đất vào thời gian giao đất là năm 2017. Việc này trái quy định của Luật Đất đai, gây thiệt hại cho Nhà nước 45 tỉ đồng.
Quá trình điều tra, ngày 23-7-2022, Công ty Tân Việt Phát có công văn xin nộp bổ sung tiền đất chênh lệch là 45 tỉ đồng. CQĐT có văn bản đồng ý và hướng dẫn nhưng quá trình điều tra, Công ty chưa thực hiện.