Để ly hôn 'an toàn'!
LS. Nguyễn Hữu Phước - Lý Ngọc Huỳnh Nhi(*)
(KTSG) - Ly hôn đâu chỉ là chuyện đời tư một cá nhân, đặc biệt là khi một trong hai người là vợ hoặc chồng là chủ một chủ doanh nghiệp, hưởng lợi ích trong doanh nghiệp đó. Nhìn từ một góc hẹp hơn về tài sản của người đứng đầu doanh nghiệp, chuyện ly hôn của doanh nhân sao cho“an toàn”, đừng gây xáo trộn việc kinh doanh hay ảnh hưởng đến doanh nghiệp là không dễ.
Dư luận vẫn chưa hết xôn xao về vụ việc ly hôn giữa tỉ phú Bill Gates và vợ là Melinda French Gates. Một trong những vấn đề thu hút sự quan tâm nhiều nhất liên quan đến quỹ từ thiện tư nhân của Bill và Melinda Gates với giá trị tài sản ròng ước tính lên đến 51 tỉ đô la Mỹ.
Nóng hổi hơn, cũng mới hôm 7-5 vừa qua, vụ ly hôn “ngàn tỉ” giữa ông Đặng Lê Nguyên Vũ và bà Lê Hoàng Diệp Thảo đi vào hồi kết sau hơn sáu năm đằng đẵng.
Nhìn trực diện vào các vụ ly hôn tốn không ít giấy mực vừa nêu, có thể nhận thấy ly hôn không chỉ là chuyện đời tư một cá nhân, mà còn có thể là vụ việc phát sinh rất nhiều vấn đề pháp lý, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh bình thường của một hay nhiều doanh nghiệp mà một trong hai vợ chồng đang có lợi ích trong đó. Bài viết này thử nhìn lại vấn đề ly hôn từ một góc nhìn hẹp hơn: góc độ tài sản của người đứng đầu doanh nghiệp.
Nhìn trực diện vào các vụ ly hôn tốn không ít giấy mực vừa nêu, có thể nhận thấy ly hôn không chỉ là chuyện đời tư một cá nhân, mà còn có thể là vụ việc phát sinh rất nhiều vấn đề pháp lý, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh bình thường của một hay nhiều doanh nghiệp mà một trong hai vợ chồng đang có lợi ích trong đó. |
Khi tài sản chung là cổ phần hay vốn góp trong doanh nghiệp
Hiện nay, pháp luật Việt Nam công nhận, tôn trọng và ưu tiên nguyên tắc phân chia tài sản theo sự thỏa thuận giữa hai bên vợ chồng về mọi vấn đề có liên quan đến tài sản chung của họ(1). Chỉ trong trường hợp các bên không thể tự thỏa thuận được thì lúc đó mới có thể yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản khi ly hôn theo quy định pháp luật.
Theo đó, trong trường hợp áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định để chia tài sản khi ly hôn thì tài sản của riêng bên nào sẽ vẫn thuộc về của bên đó (nếu có), còn đối với các tài sản chung thì Tòa án sẽ xem xét giải quyết theo nguyên tắc chung là chia đôi (50/50) cho các bên (2). Tuy nhiên, thực tế không đơn giản là việc chia cho đều mà đằng sau đó là hàng loạt vấn đề pháp lý cần những người trong cuộc đủ khôn khéo để dàn xếp sao cho thấu tình đạt lý trong khuôn khổ pháp luật.
Khi tài sản chung được phân chia là cổ phần hay phần vốn góp trong doanh nghiệp, cần lưu ý rằng, những thông tin trên giấy chứng nhận đăng ký phần vốn góp của công ty TNHH hay cổ phiếu của công ty cổ phần thường chỉ ghi tên vợ hoặc chồng là người sở hữu trên danh nghĩa. Đến khi đường ai nấy đi, việc chia đôi loại tài sản này có thể đẩy người nắm quyền kiểm soát trong doanh nghiệp vào thế bị động đối với các quyết định trong việc quản lý, vận hành doanh nghiệp khi họ không còn chiếm giữ vị trí ưu thế trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp.
Trong trường hợp người vợ hoặc chồng được nhận phần vốn góp, cổ phần sau chia tài sản, trở thành thành viên góp vốn hay cổ đông của công ty, dù không có chuyên môn nghiệp vụ quản lý, nhưng lại có quyền chi phối trong doanh nghiệp, họ sẽ dễ thao túng hay làm ảnh hưởng không ít đến việc vận hành bình thường của doanh nghiệp.
Không dừng lại ở đó, đối với những doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh các ngành, nghề có giới hạn tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, việc chia đôi phần vốn góp, cổ phần trong vụ việc ly hôn có một bên vợ chồng là người nước ngoài sẽ làm tỷ lệ sở hữu của bên nước ngoài trong doanh nghiệp tăng ngoài dự tính. Việc này vô hình trung buộc doanh nghiệp phải đối mặt với nguy cơ vi phạm pháp luật về đầu tư và phải đăng ký điều chỉnh các giấy phép của doanh nghiệp.
Trên thực tế, quy định của pháp luật và thực tiễn xét xử tại Việt Nam đều hướng tới tinh thần chung là đảm bảo việc chia đôi tài sản của vợ chồng được thực hiện gắn liền với mục đích bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp của họ, để hai bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo ra thu nhập (3).
Trong các bản án của tòa án về phân chia tài sản là phần vốn góp, cổ phần trong doanh nghiệp gần đây, khi vợ chồng không thể đạt thỏa thuận về việc tự phân chia tài sản, thông thường, tòa án sẽ xem xét và giao quyền quyết định nắm giữ số cổ phần, phần vốn góp cho một bên là người đang đứng tên trong điều lệ, giấy phép thành lập doanh nghiệp và thực tế đang dấn thân vào việc quản lý, điều hành hoạt động thường nhật của doanh nghiệp.
Trong thực tế áp dụng, vì lợi ích của doanh nghiệp, thường sẽ có hai phương án giải quyết như sau:
Một bên vợ hoặc chồng đứng tên trên giấy tờ sẽ tặng cho bên còn lại phần vốn góp, cổ phần theo nguyên tắc chia 50/50, song song với việc giao kết thỏa thuận mà theo đó một trong hai bên sẽ ủy quyền biểu quyết cho bên vợ hoặc chồng còn lại, là bên trực tiếp quản lý, điều hành hoạt động của doanh nghiệp. (Đây cũng là trường hợp được chọn của ông chủ tập đoàn Amazon, khi vợ cũ MacKenzie Scott đã trao lại quyền bỏ phiếu trong tập đoàn Amazon cho Jeff Bezos tại Amazon, giúp chủ tịch Amazon vẫn giữ nguyên được 16% quyền biểu quyết để kiểm soát Amazon);
Bên vợ hoặc chồng nắm giữ tài sản này có trách nhiệm “thối” tiền cho bên còn lại. Đây cũng là phương thức phân chia tài sản thường được các cặp vợ chồng lựa chọn nếu một bên không có đủ trình độ chuyên môn, kinh nghiệm quản trị doanh nghiệp và cũng không muốn tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp.
Tuy nhiên, nếu bên được giao nắm giữ số cổ phần, phần vốn góp không có đủ tiền mặt tại thời điểm phân chia để trả cho bên còn lại thì có thể cân nhắc phương án hoán đổi tài sản (tài sản riêng và/hoặc các tài sản từ khối tài sản chung được chia cho mình) thay cho số tiền mặt phải trả.
Một hướng nữa có thể được cân nhắc là dùng các giấy tờ có giá (vẫn do một bên vợ hoặc chồng nắm giữ đứng tên) đi cầm cố tại các ngân hàng thương mại (4) để lấy tiền mặt hoàn tất nghĩa vụ thanh toán cho bên vợ hoặc chồng có quyền, đồng thời bên vợ hoặc chồng nắm giữ vẫn đảm bảo tư cách tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp. Tuy nhiên, sự thu xếp như thế này cần được sự đồng ý trước bằng văn bản của bên còn lại thì mới có thể thực hiện.
Vấn đề ly hôn chắc chắn có những tác động không nhỏ đến đời sống tinh thần kéo theo sự giảm sút sức tập trung, năng suất làm việc... của người vợ hoặc chồng là người quản lý, điều hành doanh nghiệp. Càng đáng ngại hơn khi việc chia tài sản theo pháp luật buộc các cặp vợ chồng ly hôn phải công khai cho ít nhất là Tòa án, luật sư của các bên, cơ quan thi hành án tất cả các thông tin liên quan đến khối tài sản của hai bên. Các thông tin này sau đó có thể có rủi ro bị rò rỉ ra cho truyền thông, mạng xã hội, làm ảnh hưởng không chỉ đến hai người trong cuộc mà còn tới những người khác như cổ đông, người lao động...
Thỏa thuận tiền hôn nhân: tại sao không?
Câu chuyện “vạch áo cho người xem lưng” vốn dĩ là điều không ai muốn. Ở các nước phát triển, các công ty, tập đoàn lớn thường chủ động tìm mua các sản phẩm bảo hiểm dành cho những người ở cấp quản lý quan trọng nhất của doanh nghiệp để phòng ngừa các trường hợp bất trắc, bao gồm cả trường hợp ly hôn mà có thể làm đảo lộn hoạt động kinh doanh bình thường của doanh nghiệp, gây hậu quả xấu đến giá chứng khoán, niềm tin của khách hàng, cổ đông...
Có thể nhận thấy đa số phương thức giải quyết như nêu ở trên đều quy về một mối, đó là đề cao sự thỏa thuận của vợ chồng. Rõ ràng, các bên vợ chồng có thể nhận thấy rủi ro tiềm tàng nhưng lại không chủ động đối diện trực tiếp với vấn đề ngay từ khi chưa nảy sinh mâu thuẫn để có những bước hành xử phù hợp.
Như đã nói, việc chia đôi tài sản của vợ chồng ít hay nhiều đều gây ảnh hưởng tiêu cực không chỉ trong nội bộ gia đình mà còn tới thượng tầng quản lý của doanh nghiệp và có liên quan miếng cơm manh áo của nhiều người. Xét tới đó thì có thể thấy việc thỏa thuận về tài sản trước và trong thời kỳ hôn nhân là động thái cần thiết mà các cặp vợ chồng nên cân nhắc thực hiện để giảm thiểu những rủi ro phát sinh.
Cùng với tinh thần đó, Luật Hôn nhân và Gia đình đã mở ra cánh cửa giải quyết vấn đề này qua việc công nhận chế định thỏa thuận tiền hôn nhân (prenuptial agreement) về tài sản dưới hình thức văn bản thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ, chồng trước khi kết hôn có công chứng hoặc chứng thực. Theo đó, tùy vào điều khoản thỏa thuận mà vợ chồng sẽ giới hạn phần tài sản được tính là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, và như vậy, họ sẽ bảo toàn khối tài sản riêng của từng bên trong trường hợp ly hôn.
Còn trong hôn nhân, ở bất kỳ thời điểm nào, các cặp vợ chồng cũng đều có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ khối tài sản chung bằng văn bản được công chứng, hoặc trong trường hợp thỏa thuận đối với các loại tài sản phải thực hiện đăng ký quyền sở hữu, hay các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
Trong suy nghĩ của nhiều người Việt, việc vợ chồng đặt bút ký một văn bản thỏa thuận chia tài sản xem như ký vào một biên bản được soạn sẵn dự liệu về “kết cục tiền định” cho cuộc hôn nhân. Nhưng đứng trên cương vị một người chủ doanh nghiệp, phải chăng đã đến lúc cần bỏ qua định kiến đó và lường trước những rủi ro mà doanh nghiệp sẽ phải đối mặt khi hôn nhân của họ đi vào hồi kết?
(*) Công ty Luật Phước& Partners
(1) Điều 59.1 Luật Hôn nhân và Gia đình
(2) Điều 59.2 Luật Hôn nhân và Gia đình
(3) Điều 7.4(c) - Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP
(4) Điều 1.1. và điều 1.8 - Nghị định 11/2012/ND-CP
Xem thêm: lmth.-naot-na-noh-yl-ed/732613/nv.semitnogiaseht.www