Gần 60.000 nhà thuốc trên cả nước, hơn 7,2 triệu đơn thuốc, 26,7 triệu hóa đơn bán hàng được quản lý; 14.000 cơ sở tiêm chủng toàn quốc, 26 triệu đối tượng tượng được quản lý qua hệ thống tiêm chủng quốc gia và sổ tiêm chủng điện tử.
Đây là một trong số những nét chấm phá rất ngắn gọn về kết quả chuyển đổi số trong bối cảnh ngành y tế phải gồng mình chống chọi với COVID-19.
Trong giai đoạn đầy khó khăn đó, Viettel, với hàng loạt các giải pháp công nghệ thông tin (CNTT) được triển khai thần tốc đã góp phần ngăn chặn hiệu quả dịch bệnh đồng thời giúp ngành y tế thực hiện cuộc “cách tân” mạnh mẽ.
Sự kiện khai trương 1.000 điểm khám chữa bệnh từ xa
Tuy nhiên, nhiều người không biết rằng, hành trình của Viettel với công cuộc hiện đại hóa ngành y tế Việt Nam đã được khởi đầu từ khoảng 10 năm trước.
Tầm nhìn người tiên phong
Những năm qua, mặc dù không đưa ra tuyên bố chính thức song Viettel luôn xác định vai trò tiên phong, chủ lực của mình trong lĩnh vực y tế. Viettel từng bước tạo giúp giải quyết những bài toán lớn của ngành y với Hệ thống giám sát Bệnh truyền nhiễm toàn quốc (2016), Hệ thống tiêm chủng toàn quốc (2017), Hệ thống thông tin điều trị Methadone toàn quốc (2017), Hệ thống kết nối mạng cơ sở cung ứng thuốc toàn quốc (2018) và mới nhất là Nền tảng hỗ trợ tư vấn khám, chữa bệnh từ xa (4-2020)...
Khám chữa bệnh từ xa
Trên thực tế việc chuyển đổi số trong lĩnh vực y tế đòi hỏi một nguồn lực đầu tư rất lớn cả về tài chính, công nghệ và nhân lực. Đây là những yêu cầu không phải doanh nghiệp nào cũng có thể đáp ứng.
Chuyển đổi số phải dựa trên nền tảng hạ tầng viễn thông và đây chính là lý do Viettel kiên trì vai trò chủ lực của mình dựa trên một hạ tầng có chất lượng và độ phủ lớn nhất Việt Nam. Không những vậy, Viettel còn có năng lực nghiên cứu, sản xuất, tạo ra hệ sinh thái đầy đủ cho chuyển đổi số trong y tế. "Về nhân lực, Viettel đang sở hữu một đội ngũ chuyên gia CNTT hàng đầu trong nhiều lĩnh vực từ bảo mật, phát triển công nghệ, AI... Nguồn lực của Viettel cũng đủ mạnh để đầu tư cho các nghiên cứu chuyên sâu, dài hơi, đòi hòi nguồn tài chính lớn", ông Khổng Văn Đông, Giám đốc TT Giải pháp Y tế số thuộc Tổng Công ty Giải pháp Viettel (Viettel Solutions), chia sẻ.
Theo thống kê, hiện tại các hệ thống trong lĩnh vực y tế của Viettel đang hỗ trợ quản lý một lượng dữ liệu cực lớn như hồ sơ sức khỏe của 19 tỉnh với 3.900 cơ sở trong đó có 4,2 triệu hồ sơ liên thông, 5 triệu hồ sơ tạo lập, 18 triệu nhân khẩu, 5,6 triệu hộ khẩu. Hệ thống Quản lý bệnh viện tại 40 tỉnh với 200 bệnh viện, 3.800 đơn vị y tế cơ sở tại 34 tỉnh. Hệ thống tiêm chủng quốc gia trên 63 tỉnh, thành với 14.000 cơ sở, 22 triệu người...
Thần tốc cùng Bộ Y tế chống COVID-19
Sự tự tin về hạ tầng mạng lưới, nền tảng công nghệ, đội ngũ chuyên gia, Viettel đã dám nhận những dự án ở quy mô lớn với khoảng thời gian chỉ được tính bằng ngày, thậm chí bằng giờ.
Chiều mùng 4 Tết Canh Tý (28-1-2020), ông Nguyễn Mạnh Hổ, Tổng Giám đốc Tổng Công ty Viettel Solutions (VTS) bất ngờ nhận được cuộc gọi từ Chủ tịch Tập đoàn Viettel giao nhiệm vụ cho VTS hỗ trợ Bộ Y tế triển khai ngay một hệ thống cầu truyền hình kết nối 23 bệnh viện để phục vụ công tác chống dịch. Bình thường thì việc như thế sẽ mất cả tháng để chuẩn bị nhưng Viettel chỉ có 1,5 ngày vì mùng 6 Tết đã họp rồi.
"Chúng tôi phải dùng đến nhiều nguồn lực từ các công ty khác nhau trong Tập đoàn và cách làm cũng phải khác để đáp ứng tình huống khẩn cấp này", ông Nguyễn Mạnh Hổ nhớ lại.
Khi dịch COVID-19 bắt đầu tấn công VN cũng là lúc hạ tầng CNTT của Bộ Y tế rơi vào tình trạng quá tải khi phải nhận một lượng cập lớn chưa từng có. Ban chỉ đạo xác định truyền thông có vai trò hết sức quan trọng trong thời điểm này nên cần có ngay các kênh thông tin chính thức để người dân kịp thời cập nhật thông tin, đồng thời hỗ trợ các đơn vị y tế các tỉnh, thành.
Trong 7 ngày liên tục đã hoàn thành lắp đặt
Nhận nhiệm vụ gấp gáp nhưng chỉ sau 6 ngày VTS đã giúp Bộ Y tế khai trương app "Sức khỏe Việt Nam" (8-2-2020) trên thiết bị di động và sau đó là hệ thống web tại địa chỉ suckhoetoandan.vn đảm bảo giảm tải cho ngành y tế đảm bảo truyền thông tránh thông tin gây nhiễu sai sự thật.
Vừa hoàn thành nhiệm vụ khó thì VTS lại được tin tưởng giao thêm một nhiệm vụ "bất khả thi" là xây dựng hệ thống thông tin khai báo y tế điện tử trong vòng... 48 giờ.
Lúc đầu Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam còn yêu cầu phải hoàn thành trong 24 giờ nhưng sau khi xác định khối lượng công việc quá lớn Phó Thủ tướng đồng ý cho thêm một ngày. Nhận nhiệm vụ ngày 4-3-2020 và đến 0h sáng ngày 7-3, hệ thống (bằng 12 ngôn ngữ khác nhau) đã được đưa vào vận hành tại sân bay Tân Sơn Nhất (TP.HCM) để đón các đoàn khách đầu tiên.
"Nhờ vào hệ thống này thời gian trung bình để tìm được một hành khách bay trên một chuyến bay có bệnh nhân nhiễm COVID-19 chỉ mất khoảng nửa giờ. Trước đó thời gian để xác định trung bình mất 4 ngày và phải sử dụng nguồn nhân lực cực lớn từ các cơ quan chức năng", ông Khổng Văn Đông cho biết.
Đầu tháng 4-2021, chỉ sau 2 tuần được giao nhiệm vụ, Viettel Solutions đã sẵn sàng triển khai giải pháp "hộ chiếu vaccine". Thời gian triển khai gấp với nhiều yêu cầu kỹ thuật phức tạp, nhưng theo ông Lưu Thế Anh, Phó Giám đốc TT Giải pháp Y tế số thuộc Viettel Solutions thì đơn vị này không gặp quá nhiều áp lực bởi đã lường trước khả năng phải triển khai “hộ chiếu vaccine” và đã có chuẩn bị giải pháp cho vấn đề này từ trước đó.
Câu chuyện này là một trong những ví dụ cho thấy những kết quả mà Viettel có được không phải ngẫu nhiên mà là sự chuẩn bị từ nhiều năm qua với tầm nhìn xa của các cấp lãnh đạo Tập đoàn. Sự chuẩn bị sẵn sàng về CĐS giúp Viettel kịp thời đối phó, đóng góp tích cực vào phòng chống dịch bệnh COVID-19.
Viettel hoàn thành kết nối camera khu vực cách ly
"Viettel đã chuẩn bị sẵn các công nghệ nền tảng, thậm chí các ứng dụng y tế cũng đã được đặt sẵn trên các kho Google Play và App store sau đó triển khai và đổi tên. Nếu lúc đó mới làm thì có thể mất vài tuần chưa đưa lên các kho ứng dụng được", ông Đông chia sẻ.
Cũng theo ông Đông, quãng thời gian để chuẩn bị cho việc khai trương Hệ thống khám, chữa bệnh từ xa (Telehealth) do Viettel phối hợp Bệnh viện Đại học Y và các bệnh viện vệ tinh triển khai thí điểm chỉ có vỏn vẹn 1 tuần. Trong khi nếu thông thường để chuẩn bị cho việc này phải mất trung bình... 2 năm.
Đây không chỉ đơn thuần là bài toán kết nối mà một nền tảng platform giúp truyền toàn bộ dữ liệu của bệnh nhân đến bác sĩ. Đơn giản nhất là ở đầu này đặt ống nghe vào ngực bệnh nhân thì ở đầu kia bác sĩ cũng nghe được như đang ở bên cạnh bệnh nhân.
Chủ lực dẫn dắt tạo cơ hội để cùng phát triển
Theo ông Đông, Viettel là tập đoàn lớn, lãnh đạo xác định trách nhiệm xã hội lớn tập trung đầu tư mạnh vào lĩnh vực y tế, giáo dục để hỗ trợ xã hội được nhiều nhất. Viettel đã có đơn vị nghiên cứu các giải pháp công nghệ thông tin cho ngành y tế trong nhiều năm, mang lại nhiều thành công cho ngành y.
Ngoài sự chuẩn bị về nền tảng công nghệ, tư duy... mối quan hệ, sự tin tưởng của ngành y tế với Viettel cũng có vai trò hết sức quan trọng. Trong nhiều trường hợp VTS còn tư vấn cho Bộ Y tế các giải pháp khi vấn đề chưa được tính đến.
"Khi lãnh đạo ngành y tế cần bất cứ sản phẩm nào, họ sẽ nhớ đến chúng tôi đầu tiên. Năm qua, tôi thường xuyên được trao đổi trực tiếp với Phó thủ tướng Vũ Đức Đam, Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thanh Long về ý tưởng các sản phẩm mới nhằm phục vụ việc chống dịch COVID-19. Đáp lại sự tin tưởng đó Viettel luôn đưa ra đúng công cụ mà các lãnh đạo ngành đang cần, đảm bảo đúng deadline được giao", ông Đông chia sẻ.
Trong thời gian ngắn sắp tới Viettel sẽ tập trung đưa trí tuệ nhân tạo (AI) và dữ liệu lớn (Big Data) vào ngành y tế, cụ thể là các nền tảng như hồ sơ sức khỏe, mã số y tế, dịch vụ công, quản lý an toàn thực phẩm. Đặc biệt liên quan đến "hộ chiếu vaccine" Viettel sẽ đưa vào áp dụng các công nghệ như blockchain, nhận diện sinh trắc học.
Với dịch vụ Telehealth, Viettel có tham vọng đưa công nghệ này đến từng hộ gia đình, kết nối trực tiếp từng khu công nghệ - nơi yếu thế về dịch vụ y tế. Một dự án lớn được cả Bộ Y tế và Viettel rất kỳ vọng là đến 1-7, hệ thống đặt lịch khám quốc gia sẽ được vận hành. Với hệ thống này người dân có thể đặt lịch khám qua điện thoại, tổng đài, ứng dụng, cổng thông tin.
Tuy vậy, xác định vai trò chủ lực trong hỗ trợ chuyển đổi số cho ngành y tế, nhưng điều đó không có nghĩa là Viettel sẽ "làm tất". Viettel sẽ không bao giờ đi một mình trong công cuộc chuyển đổi số nói chung hay ngành y nói riêng. Quan điểm của lãnh đạo Viettel là với mỗi dự án Viettel sẽ tập hợp được các nguồn lực từ xã hội từ các start-up, doanh nghiệp nhà nước, tư nhân khác để khai thác thế mạnh riêng của mỗi người. "Viettel muốn đóng vai trò dẫn dắt chủ trì tạo ra cơ hội cho các doanh nghiệp khác cùng phát triển theo và tạo ra những sản phẩm, dịch vụ tốt nhất cho xã hội", ông Đông nói.
Công nghệ số sẽ tạo ra những thay đổi toàn diện, căn bản ngành y tế Quá trình chuyển đổi số của ngành y tế Việt Nam cùng với sự hỗ trợ của Viettel được dự báo sẽ giúp tạo ra những thay đổi toàn diện, căn bản trong lĩnh vực này. Theo tầm nhìn của lãnh đạo ngành y tế VN việc áp dụng công nghệ số để quản lý nhân lực ngành y và thông tin sức khỏe cá nhân, hai yếu tố được coi là cốt lõi sẽ tạo ra những thay đổi đột phá đối với ngành, ông Đông chia sẻ. Thứ nhất, thông qua hệ thống quản lý mạng y tế VN, thông tin của hơn 500 nghìn cán bộ ngành y "online" sẽ giúp việc điều phối, hỗ trợ nguồn lực được thuận lợi. Theo kỳ vọng của lãnh đạo ngành y, nhân lực của ngành sẽ được xây dựng thành đội hình 1-4-4-2. Điều đó có nghĩa là một bác sĩ trung ương sẽ hỗ trợ 4 bác sĩ tuyến tỉnh, 4 bác sĩ tuyến huyện và hai bác sĩ tuyến xã. Thứ hai, thông qua hệ thống Hồ sơ sức khỏe cá nhân, thông tin của người dân sẽ được quản lý một cách khoa học. Các dữ liệu như chỉ số sức khỏe, môi trường sống, tiền sử bệnh tật, gia đình, dữ liệu khám bệnh tại các cơ sở y tế đều được cập nhật đầy đủ và liên tục… Thông tin sẽ được phân tích là tạo thành bản sao số cho từng người dân. Đồng thời thông tin này sẽ được AI phân tích, gợi ý tình trạng sức khỏe có thể gặp phải trong tương lai và hướng điều trị dự phòng. Việc áp dụng công nghệ hiện đại sẽ giúp các “bệnh viện thông minh” ra đời, giúp cải thiện năng suất lao động, giảm thiểu các sai sót y khoa. Ví dụ, việc đưa AI vào quá trình siêu âm sẽ giúp các bác sĩ phát hiện bất thường bằng cách phát tín hiệu. Thậm chí, AI còn có thể gợi ý cho kỹ thuật viên về dấu hiệu của bệnh. Khi đó, quá trình siêu âm sẽ không chỉ dựa vào kinh nghiệm, kiến thức của một bác sĩ mà là tri thức của rất nhiều người, mang tính hội chẩn, giảm sai sót y khoa. |