Economist cho biết lạm phát trung bình của các nước giàu đã vượt 9%. Đây là con số chưa từng có kể từ thập niên 80, cao hơn dự báo của các nhà kinh tế. Giới chuyên gia cho biết chưa bao giờ thế giới chứng kiến nhiều bất ngờ về lạm phát đến như vậy.
Điều này đang gây ra thiệt hại nặng nề cho các nền kinh tế và thị trường tài chính. Các ngân hàng trung ương đang tăng lãi suất và chấm dứt kế hoạch mua trái phiếu. Niềm tin của người tiêu dùng ở nhiều nơi thậm chí còn thấp hơn so với những ngày đầu đại dịch. Các chỉ số đo lường hoạt động sản xuất, tiêu dùng cho thấy tăng trưởng toàn cầu đang chậm lại đáng kể.
Do đó, giá tiêu dùng sắp tới ra sao sẽ là một trong những câu hỏi quan trọng nhất đối với kinh tế toàn cầu. Nhiều chuyên gia cho rằng lạm phát sẽ sớm hạ nhiệt. Trong dự báo mới nhất của mình, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) dự kiến lạm phát của nền kinh tế lớn nhất thế giới sẽ giảm từ 5,2% cuối năm nay xuống 2,6% cuối năm tới.
Tuy nhiên, các dự báo này chưa chắc đáng tin. Hầu hết nhà kinh tế gần đây đã không lường trước được lạm phát và dự đoán sai rằng nó sẽ nhanh chóng biến mất.
"Sự hiểu biết của chúng ta về cách thức vận hành của nền kinh tế ngày nay - cũng như khả năng dự đoán tác động của các cú sốc và hành động chính sách - không cải thiện so với những năm 1960", Jeremy Rudd, Nhà kinh tế cấp cao Bộ phận Nghiên cứu và Thống kê của Fed, thừa nhận sự trong bài phân tích vào tháng 5. Chuyên gia này cho rằng triển vọng lạm phát hiện không chắc chắn.
Một số chỉ báo cho thấy áp lực giá sẽ tăng lên trong thời gian tới. Công ty tư vấn Alternative Macro Signals đã chạy thuật toán nghiên cứu hàng triệu tin bài để xây dựng một "chỉ số tin tức áp lực lạm phát". Chỉ số này phản ánh kịp thời hơn so với số liệu lạm phát chính thức.
Nó không chỉ đo lường mức độ thường xuyên đề cập đến áp lực giá cả, mà còn xem liệu luồng tin tức có cho thấy áp lực đang tăng lên hay không. Kết quả, ở Mỹ và châu Âu, chỉ số này vẫn trên mốc 50, tức áp lực lạm phát vẫn đang tăng.
3 chỉ số khác thì cho thấy các nước giàu khó có thể sớm trở lại mức lạm phát thấp trước đại dịch. Đó là sức ép tăng lương, kỳ vọng lạm phát của người tiêu dùng và kỳ vọng lạm phát của doanh nghiệp tăng.
Nếu 3 chỉ số này duy trì, chúng có thể gây ra tình trạng mà Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) mô tả trong báo cáo vài ngày trước là "mốc giới hạn". BIS cũng cảnh báo "tâm lý lạm phát" lan rộng và khó thay đổi.
Người lao động sẽ bắt đầu mặc cả để được trả lương cao hơn. Điều này có thể tạo ra một đợt tăng giá khác, khi các công ty cộng thêm các chi phí này vào giá hàng hóa, dịch vụ.
Khảo sát tại Tây Ban Nha cho thấy một nửa số thỏa thuận tập thể được ký kết cho năm 2023 có chứa điều khoản về việc tiền lương sẽ tự động tăng theo lạm phát. Trước đại dịch, chỉ 20% thỏa thuận có điều khoản này.
Tại Đức, tổ chức công đoàn Ig Metall đã yêu cầu tăng lương 7-8% cho gần 4 triệu công nhân trong lĩnh vực kim loại và kỹ thuật. Ở Anh, công nhân đường sắt đình công để đòi tăng lương 7%, dù chưa rõ liệu họ có thành công hay không.
Những điều này sẽ khiến tăng trưởng tiền lương còn nóng hơn. Hiện tại, chỉ số theo dõi nhóm G10 do Goldman Sachs tổng hợp đang tăng gần như thẳng đứng. Thước đo áp lực tiền lương của Alternative Macro Signals cũng tăng tương tự.
Mức lương thực tế hiện cũng đang đi lên. Hà Lan đang tăng lương tối thiểu. Đầu tháng này, Đức thông qua dự luật tăng mức tối thiểu lên 20%. Ngày 15/6, Australia nâng lương lên 5,2%, hơn gấp đôi mức tăng năm ngoái.
Tăng trưởng tiền lương nhanh hơn một phần phản ánh dự báo của người tiêu dùng đối với lạm phát trong tương lai. Ở Mỹ, kỳ vọng giá trung bình trong thời gian tới đang tăng nhanh.
Người dân Canada cho biết đang chuẩn bị cho lạm phát 7% năm tới, mức cao nhất trong nhóm nước giàu. Ngay cả ở Nhật Bản, nơi giá cả hiếm khi thay đổi, niềm tin cũng bắt đầu dịch chuyển. Một năm trước, khảo sát của ngân hàng trung ương cho thấy chỉ 8% người dân tin giá sẽ tăng "đáng kể" trong năm tới. Tuy nhiên, tỷ lệ này hiện là 20%.
Yếu tố thứ ba liên quan đến dự báo của doanh nghiệp. Kỳ vọng lạm phát của các nhà bán lẻ đang ở mức kỷ lục tại một phần ba quốc gia châu Âu. Khảo sát của Ngân hàng Trung ương Anh cho thấy giá quần áo cho các bộ sưu tập thu đông sẽ cao hơn 7-10% so với một năm trước.
Kỳ vọng về việc lạm phát hạ nhiệt đang dồn vào giá hàng hóa. Giá ôtô, tủ lạnh và những sản phẩm tương tự tăng nhanh một phần do những khó khăn trong chuỗi cung ứng. Tuy nhiên, việc tắc nghẽn đang dần hạ nhiệt. Chi phí vận chuyển từ Thượng Hải đến Los Angeles đã giảm 25% kể từ đầu tháng 2.
Vài tháng trước, nhiều nhà bán lẻ đã chi lớn để tích trữ hàng hóa, nhằm đảm bảo các kệ hàng luôn đầy ắp. Nhưng hiện tại, nhiều công ty phải giảm giá để giải phóng hàng tồn. Ở Mỹ, sản xuất ôtô đang tăng lên, có thể giúp giảm áp lực tăng giá xe đã qua sử dụng.
Về lý thuyết, giá hàng hóa giảm có thể giúp dập tắt lửa lạm phát, xoa dịu cuộc khủng hoảng chi phí sinh hoạt, giúp các ngân hàng trung ương dễ thở hơn một chút và thúc đẩy thị trường tài chính. Tuy nhiên, khi 3 chỉ báo về giá vẫn còn tăng như trên, khả năng lạm phát cao vẫn kép dài. "Đừng ngạc nhiên nếu lạm phát vẫn bùng lên trong một thời gian nữa", Economist kết luận.
Phiên An (theo The Economist)