Năng lượng: Giá dầu giảm 3,5%; khí tự nhiên tăng gần 5%
Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu thế giới giảm nhẹ vào thứ Sáu (23/6) và ghi nhận mức giảm trong tuần qua do các thương nhân lo ngại việc tăng lãi suất có thể làm giảm nhu cầu, cho dù có dấu hiệu nguồn cung thắt chặt hơn bao gồm dự trữ dầu thô của Mỹ giảm.
Cụ thể, đóng cửa phiên 23/6, dầu thô Brent giảm 29 US cent (-0,4%) về 73,85 USD/thùng; dầu thô Mỹ (WTI) giảm 35 US cent (-0,5%) về 69,16 USD/thùng. Tính chung cả tuần, hai loại dầu đều giảm hơn 3,5%.
Khả năng Mỹ tiếp tục tăng lãi suất dường như cũng dễ xảy ra hơn. Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) - Chi nhánh San Francisco Mary Daly nhận định, có thêm 2 lần tăng lãi suất nữa trong năm 2023 là một dự đoán “rất hợp lý”.
Lãi suất cao hơn làm tăng chi phí vay cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng, điều này có thể làm chậm tăng trưởng kinh tế và giảm nhu cầu dầu mỏ. Bên cạnh đó, tâm lý lo ngại rủi ro của các nhà đầu tư cũng làm tăng giá trị của USD, điều này gây áp lực lên giá dầu vì khiến hàng hóa này trở nên đắt đỏ hơn đối với những người nắm giữ tiền tệ khác.
Công ty Dịch vụ năng lượng Baker Hughes Co (BKR.O) cho biết, các công ty năng lượng của Mỹ trong tuần này đã cắt giảm số lượng giàn khoan hoạt động trong tuần thứ 8 liên tiếp. Số lượng giàn khoan dầu của Mỹ - một chỉ báo về sản lượng trong tương lai - đã giảm 6 giàn xuống 546 giàn trong tuần này, mức thấp nhất kể từ tháng 4/2022.
Báo cáo hàng tồn kho tuần này của Mỹ cho thấy các kho dự trữ dầu thô bất ngờ giảm 3,8 triệu thùng. Ủy ban Giao dịch Hàng hóa tương lai Hoa Kỳ (CFTC) cho biết hôm thứ Sáu rằng, các nhà quản lý tiền tệ đã tăng các vị thế quyền chọn và hợp đồng tương lai dầu thô dài hạn của Mỹ tại New York và London thêm 4.790 hợp đồng lên 78.064 trong tuần tính đến ngày 20/6/2023.
Trên thị trường khí đốt, giá khí tự nhiên tại Mỹ tăng lên mức cao nhất 16 tuần do sản lượng tại Mỹ trong mấy tuần gần đây giảm và dự báo thời tiết vẫn nóng đến đầu tháng 7/2023, đặc biệt tại bang Texas.
Cụ thể, giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn New York tăng 12,1 US cent (+4,6%) lên 2,729 USD/mmBTU - mức cao nhất kể từ ngày 3/3/2023. Tính chung cả tuần, giá khí tự nhiên tăng 4% - tuần tăng thứ 3 liên tiếp, cũng là lần đầu tiên kể từ tháng 4/2023.
Kim loại: Đồng loạt giảm giá
Ở nhóm kim loại quý, giá vàng tăng trong phiên 23/6, song có tuần giảm mạnh nhất trong hơn 4 tháng do USD tăng mạnh.
Cụ thể, kết thúc phiên 23/6, vàng giao ngay trên sàn LBMA tăng 0,3% lên 1.919,99 USD/ounce do lợi suất trái phiếu của Mỹ giảm và vàng kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn New York tăng 0,3% lên 1.929,6 USD/ounce. Tuy nhiên, tính chung cả tuần, giá vàng giảm vẫn gần 2% và giảm hơn 150 USD/ounce kể từ mức cao nhất hơn 2.000 USD/ounce vào đầu tháng 5/2023.
Chỉ số đồng USD tăng 0,5% lên mức cao nhất 1 tuần so với các đồng tiền chủ chốt khác, khiến vàng trở nên kém hấp dẫn hơn khi mua bằng tiền tệ khác.
Tương tự, giá bạc tăng 0,5% lên 22,34 USD/ounce, song cũng có tuần giảm mạnh nhất kể từ tháng 10/2022. Giá bạch kim giảm 0,6% về 917,34 USD/ounce và có tuần giảm mạnh nhất kể từ tháng 8/2022. Giá paladi ở mức 1.283,18 USD/ounce sau khi chạm mức thấp nhất kể từ tháng 5/2019 trong phiên trước đó.
Ở nhóm kim loại công nghiệp, giá đồng có tuần giảm sau 3 tuần tăng liên tiếp, do lo ngại tăng trưởng kinh tế toàn cầu sau khi lãi suất tăng làm lu mờ sự hỗ trợ từ tồn trữ đồng tại London giảm.
Cụ thể, giá đồng trên sàn London giảm 2,2% xuống 8.389,5 USD/tấn. Tính chung cả tuần, giá giảm 2%. Tồn trữ đồng tại London giảm xuống mức thấp nhất 1 tháng, đạt 79.300 tấn.
Cũng trên trên sàn London, giá nhôm giảm 1,1% xuống 2.176 USD/tấn và có tuần giảm mạnh nhất kể từ ngày 10/2/2023. Giá nickel tăng 0,5% lên 21.285 USD/tấn, song có tuần giảm mạnh nhất kể từ ngày 12/5/2023.
Về nhóm kim loại đen, trong phiên 21/6/2023, giá quặng sắt trên sàn giao dịch Đại Liên và Singapore tiếp tục giảm do các thương nhân đánh giá nhà sản xuất thép hàng đầu Trung Quốc có thể hỗ trợ cho sự phục hồi kinh tế của nước này đang chững lại.
Cụ thể, hợp đồng quặng sắt giao tháng 9/2023 được giao dịch nhiều nhất trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên của Trung Quốc giảm hơn 1% xuống mức 797,5 CNY (tương đương 110,86 USD)/tấn.
Trên Sàn giao dịch Singapore, hợp đồng quặng sắt tháng 7/2023 của nguyên liệu sản xuất thép này giảm 2% xuống 110,75 USD/tấn.
Cả hai chỉ số chuẩn của Đại Liên và Singapore đều giảm từ mức cao nhất trong hơn 2 tháng qua do việc cắt giảm lãi suất cơ bản cho vay của Trung Quốc không như kỳ vọng, đặc biệt là lĩnh vực bất động sản ngày càng suy giảm. Lãi suất cơ bản cho vay 5 năm của Trung Quốc, đóng vai trò là lãi suất tham chiếu thế chấp, đã bị cắt giảm chỉ 10 điểm cơ bản.
Sản lượng thép tại Trung Quốc dự kiến sẽ giảm hơn nữa để phù hợp với thực tế yếu kém của bất động sản nước này, ANZ Research cho biết trong báo cáo triển vọng hàng quý. Điều này sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu quặng sắt, ngay khi sự gián đoạn nguồn cung giảm bớt. Khảo sát mới nhất của Công ty Tư vấn Mysteel cho thấy, tổng khối lượng quặng sắt được vận chuyển từ 19 cảng và 16 công ty khai thác ở Úc và Brazil đã tăng trở lại, sau khi giảm vào tuần trước.
Các chuyến hàng trong thời gian từ 12-18/6/2023 đã tăng 2,6 triệu tấn (+10%) trong tuần lên 28,6 triệu tấn - mức cao nhất kể từ tháng 12/2020.
Trên sàn giao dịch Thượng Hải, giá thép cây giảm 1,6%; thép cuộn giảm 1,4%; dây thép giảm 1,5%; ngược lại, thép không gỉ tăng 0,1%.
Trên sàn Đại Liên, giá than cốc giảm 0,7%, còn than luyện cốc tăng 0,1%.
Nông sản: Giá ngô, đậu tương và lúa mì đều giảm
Trong phiên cuối tuần qua (23/6), giá ngô và đậu tương trên sàn Chicago giảm xuống mức thấp nhất 1 tuần, chịu áp lực giảm bởi dự báo mưa tại khu vực trung tây Mỹ thúc đẩy năng suất cây trồng.
Cụ thể, giá ngô kỳ hạn tháng 12/2023 giảm 32-3/4 US cent về 5,88 USD/bushel và đậu tương kỳ hạn tháng 11/2023 giảm 29-1/2 US cent về 13,1 USD/bushel.
Giá lúa mì đỏ mềm, vụ đông kỳ hạn tháng 9/2023 giảm 6-1/2 US cent về 7,46-1/2 USD/bushel. Tính chung trong 5 tuần qua, giá lúa mì tăng 21%.
Nguyên liệu công nghiệp: Gía cà phê giảm mạnh nhất 6 tháng; đường, cao su và dầu cọ cũng giảm
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn ICE giảm 0,75 US cent (-3%) về 24,18 US cent/lb, sau khi chạm mức thấp nhất 2 tháng (24,13 US cent/lb) trong phiên 2/3/6. Tính chung cả tuần, giá đường giảm 8,5%.
Đồng thời, giá đường trắng kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn London giảm 16,6 USD (-2,5%) xuống 657,3 USD/tấn. Tính chung cả tuần, giá đường trắng giảm 6,4%.
Giá cà phê arabica trên sàn ICE giảm xuống mức thấp nhất 6 tháng và kết thúc tuần giảm 8,8%, do giảm bớt lo ngại nguồn cung.
Cụ thể, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn ICE giảm 5,4 US cent (-3,2%) về 1,6485 USD/lb - thấp nhất kể từ tháng 1/2023 (1,6405 USD/lb). Cà phê robusta kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn London giảm 73 USD (-2,7%) về 2.676 USD/tấn.
Sản lượng cà phê toàn cầu niên vụ 2023/24 (từ tháng 10/2023-9/2024) dự kiến sẽ tăng 4,3 triệu bao (60 kg) so với niên vụ 2022/23 lên 174,3 triệu bao, do sản lượng tại Brazil và Việt Nam tăng, bù đắp sản lượng cà phê tại Indonesia giảm, USDA cho biết.
Giá cao su tại Nhật Bản có tuần thấp nhất kể từ ngày 7/4/2023, do nhu cầu của Trung Quốc giảm và hoạt động sản xuất nội địa giảm khiến các thương nhân bi quan về nền kinh tế.
Cụ thể, giá cao su kỳ hạn tháng 11/2023 trên sàn Osaka giảm 0,5 JPY (-0,2%) về 206 JPY (1,44 USD)/kg. Đây là phiên giảm thứ 4 liên tiếp và có chuỗi giảm dài nhất kể từ tháng 3/2023. Tính chung cả tuần, giá cao su giảm 2,5%. Giá cao su kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn Singapore giảm 0,1% về 132,5 US cent/kg.
Hoạt động sản xuất của Nhật Bản trong tháng 6/2023 giảm và tăng trưởng trong lĩnh vực dịch vụ chậm lại lần đầu tiên trong 7 tháng qua.
Giá dầu cọ tại Malaysia tăng sau khi giảm 3 phiên liên tiếp do giá dầu thực vật khác tăng như dầu đậu tương. Cụ thể, giá dầu cọ kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Bursa Malaysia tăng 1,74% lên 3.624 ringgit (775,35 USD)/tấn. Tuy nhiên, tính chung cả tuần giá vẫn giảm.
Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua
(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn). |