Dòng tiền 'thông minh' chưa để mắt tới cổ phiếu ngành xi măng
Đăng Linh
(KTSG) - Đứng trước nhiều cơ hội và rủi ro song hành, nhà đầu tư vào nhóm cổ phiếu ngành xi măng có lẽ sẽ ưa thích chiến lược đầu tư ngắn hạn, nương theo dòng tiền hơn là chiến lược mua và nắm giữ dài hạn.
Sản lượng sản xuất của các doanh nghiệp xi măng đã có mức tăng trưởng khá tốt trong các tháng đầu năm. Ảnh: TTXVN |
Giá cổ phiếu vẫn đi xuống
Cùng với đà hồi phục của thị trường bất động sản cũng như hưởng lợi từ đà tăng của giá hàng hóa, nguyên nhiên liệu thế giới, sản lượng sản xuất của các doanh nghiệp sản xuất xi măng Việt Nam đã có mức tăng trưởng khá tốt trong các tháng đầu năm. Cụ thể, theo thống kê từ Vụ Vật liệu xây dựng - Bộ Xây dựng, trong bốn tháng đầu năm 2021 tiêu thụ sản phẩm xi măng ước đạt khoảng 34,6 triệu tấn, tăng 16,5% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó, tiêu thụ trong nước khoảng 19,4 triệu tấn, tăng không đáng kể so với cùng kỳ nhưng sản lượng xuất khẩu lại tăng mạnh, ước đạt khoảng 15 triệu tấn, tăng tới 65% so với cùng kỳ năm 2020.
Bên cạnh việc gia tăng sản lượng tiêu thụ, giá bán sản phẩm cũng được nhiều công ty xi măng điều chỉnh tăng. Cụ thể, Công ty cổ phần (CTCP) Xi măng Vicem Hoàng Mai tăng giá bán thêm 30.000 đồng/tấn đối với tất cả sản phẩm xi măng bao và rời (áp dụng cho khu vực Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh). CTCP Xi măng Bỉm Sơn tăng giá bán 30.000 đồng/tấn từ ngày 21-4-2021. Xi măng Hoàng Long, Xi măng Xuân Thành, Xi măng Duyên Hà và Xi măng Long Sơn cũng tăng giá bán thêm 40.000 đồng/tấn sản phẩm từ cùng thời điểm.
Rủi ro với cổ phiếu ngành xi măng là biến động về giá điện, giá than. Chi phí giá than và giá điện chiếm từ 40-45% giá thành sản xuất clinker, trong khi giá clinker chiếm hơn 60% chi phí nguyên liệu đầu vào của xi măng, khiến lợi nhuận của cả ngành biến động rất lớn theo giá điện và giá than. |
Mặc dù hoạt động sản xuất kinh doanh đang được hưởng lợi từ nhiều yếu tố, nhưng trên thị trường chứng khoán các cổ phiếu ngành xi măng như HT1 (CTCP Xi măng Vicem Hà Tiên), BTS (CTCP Xi măng Bút Sơn), hay BCC (CTCP Xi măng Bỉm Sơn), HVX (CTCP Xi măng Hải Vân)... lại chỉ phản ứng tích cực với thông tin tăng giá bán xi măng trong một thời gian ngắn, sau đó nhanh chóng đi xuống kể từ tháng 4 cho đến nay.
Điển hình như giá cổ phiếu HT1 đã giảm 17%, xuống quanh mức 15.000 đồng/cổ phiếu trong vòng hai tháng qua; cổ phiếu BCC giảm 18%, xuống quanh mức 10.000 đồng/cổ phiếu; cổ phiếu BTS giảm 15%, xuống mức 6.200 đồng/cổ phiếu; cổ phiếu HVX mất tới gần 40% so với mức đỉnh 7.120 đồng/cổ phiếu xác lập vào ngày 16-4-2021, hiện chỉ còn giao dịch quanh 4.500 đồng/cổ phiếu...
Cơ hội và thách thức song hành
Giá bán xi măng tăng sẽ phản ánh vào kết quả kinh doanh quí 2 của các công ty xi măng, còn kết quả kinh doanh quí 1 của một số công ty vẫn chưa thực sự khởi sắc. Điều này phần nào lý giải việc cổ phiếu xi măng vẫn đang kém sức hút với nhà đầu tư. Đơn cử như tại CTCP Xi măng Bỉm Sơn, kết thúc quí 1-2021, doanh thu đạt 1.060 tỉ đồng, tăng nhẹ 1% so với cùng kỳ 2020, nhưng lợi nhuận sau thuế chỉ đạt 13,4 tỉ đồng, giảm 48% so với quí 1-2020.
Theo giải trình của công ty, nguyên nhân lợi nhuận quí 1-2021 giảm là do giá vốn tăng mạnh so với mức tăng của doanh thu và mức giảm của chi phí tài chính, chi phí quản lý doanh nghiệp và chi phí bán hàng. Trước đó, công ty báo cáo kết quả kinh doanh năm 2020 kém tích cực, với lợi nhuận sau thuế 84 tỉ đồng, giảm một nửa so với năm 2019.
Tại CTCP Xi măng Hà Tiên 1, doanh thu quí 1 đạt 1.741 tỉ đồng, chỉ tăng nhẹ 0,5% so với cùng kỳ năm ngoái; lợi nhuận sau thuế đạt 94,7 tỉ đồng, giảm 9,5% so với cùng kỳ. Bên cạnh đó, cổ phiếu HT1 cũng vừa mới bị loại khỏi danh mục của MSCIFrontier Markets Small Cap Index, đồng thời lãnh đạo công ty cũng đăng ký bán lượng lớn cổ phiếu. Những yếu tố này đã tác động tiêu cực, khiến HT1 rơi vào vòng xoáy giảm giá.
Hiện nay, cổ phiếu xi măng của các nước xuất khẩu xi măng đang được giao dịch ở mức P/E (thị giá/thu nhập của cổ phiếu), P/B (thị giá cổ phiếu/giá trị sổ sách) và EV/EBITDA (giá trị doanh nghiệp/lợi nhuận thuần trước thuế + chi phí lãi vay + khấu hao) lần lượt là 12,8x, 1,3x và 6,4x. Trong khi đó, cổ phiếu xi măng của thị trường Việt Nam được định giá ở mức P/E, P/B và EV/EBITDA lần lượt đạt 8,4x, 1,1x và 4,8x, tức thấp hơn 15-34% so với định giá chung của các nước. Điều này được lý giải là do tình trạng dư cung trong quá khứ.
Theo nhận định của Công ty Chứng khoán Mirae Asset, trong năm 2021, cổ phiếu ngành xi măng của Việt Nam sẽ được tái định giá với mức P/E và EV/EBITDA lần lượt là 10,3 lần và 5,7 lần, thấp hơn 10% so với mặt bằng các nước đang phát triển.
Tuy nhiên, công ty chứng khoán này cũng lưu ý rủi ro với cổ phiếu ngành xi măng là biến động về giá điện, giá than. Chi phí giá than và giá điện chiếm từ 40-45% giá thành sản xuất clinker, trong khi giá clinker chiếm hơn 60% chi phí nguyên liệu đầu vào của xi măng, khiến lợi nhuận của cả ngành biến động rất lớn theo giá điện và giá than.
Bên cạnh đó, thị trường xuất khẩu xi măng của Việt Nam hiện đang quá phụ thuộc vào Trung Quốc. Trong giai đoạn 2017-2019, Trung Quốc đã trở thành nhà nhập khẩu xi măng và clinker lớn nhất của Việt Nam. Đỉnh điểm trong 10 tháng năm 2020, nhập khẩu của Trung Quốc đã chiếm hơn 50% tổng sản lượng xuất khẩu xi măng và clinker của Việt Nam. Nếu Trung Quốc ngưng các chính sách kích cầu cơ sở hạ tầng, sản lượng xuất khẩu sẽ giảm khoảng 25-30% trong ngắn hạn và trung hạn.
Đứng trước nhiều cơ hội và rủi ro song hành, nhà đầu tư vào nhóm cổ phiếu ngành xi măng có lẽ sẽ ưa thích chiến lược đầu tư ngắn hạn, nương theo dòng tiền hơn là chiến lược mua và nắm giữ dài hạn. Mặc dù vậy, định giá rẻ có thể sẽ là câu chuyện hấp dẫn nhất đối với nhóm ngành này trong bối cảnh VN-Index liên tiếp thiết lập đỉnh mới, khiến định giá của các nhóm ngành khác không ngừng tăng lên. Khi đó, dòng tiền “thông minh” có thể sẽ sớm tìm đến những nhóm ngành chưa được để ý nhiều trong thời gian qua.
Xem thêm: lmth.gnam-ix-hnagn-ueihp-oc-iot-tam-ed-auhc-hnim-gnoht-neit-gnod/019613/nv.semitnogiaseht.www