Nghịch lý ngành muối
Theo Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ NN&PTNT), nghề làm muối của Việt Nam là một nghề truyền thống có từ lâu đời. Đây được cho là ngành sản xuất có tầm quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của đất nước.
Tuy nhiên, một thực tế đang tồn tại là mặc dù nước ta có nhiều tiềm năng để sản xuất muối khi có bờ biển dài hơn 3.200km, nhiều địa phương có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển cánh đồng muối như: Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận…nhưng hiện nay, muối của Việt Nam chưa được đánh giá cao, giá bán thấp.
Đồng thời, dù sản lượng muối trung bình trong những năm gần đây đạt trên 1 triệu tấn/năm nhưng vẫn không đủ để đáp ứng nhu cầu sử dụng hàng năm của cả nước, rơi vào khoảng từ 1,5-1,6 triệu tấn. Mỗi năm Việt Nam vẫn phải nhập khẩu từ 400-600 nghìn tấn muối để đáp ứng nhu cầu trong nước.
Đây cũng là vấn đề “nan giải” khi dự báo nhu cầu về tiêu dùng muối toàn quốc sẽ đạt khoảng 2 triệu tấn vào năm 2030, trong đó, muối công nghiệp 1,35 triệu tấn.
Bên cạnh đó, theo báo cáo của Bộ Công Thương, giai đoạn 2017-2020, lượng muối nhập khẩu theo hạn ngạch thuế quan công bố là 110.000 tấn. Trong khi tổng nhu cầu muối công nghiệp của các doanh nghiệp để sản xuất hiện nay khoảng 350 nghìn tấn. Lượng muối nhập khẩu theo hạn ngạch thuế quan được phân giao còn thấp, không đủ đáp ứng nhu cầu sản xuất hóa chất.
Dù nhu cầu trong nước lớn song diện tích sản xuất muối của nước ta lại ngày càng thu hẹp. Diện tích sản xuất muối năm 2022 là 11.009 ha, năm 2017 diện tích đạt cao nhất 13.158 ha, năm 2018 diện tích đạt 13.074 ha… Diện tích giảm dần trong những năm gần đây do thu nhập từ sản xuất muối thấp, người dân đã dần chuyển đổi diện tích sản xuất kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy hải sản hoặc chuyển sang làm nghề khác nên một số diện tích sản xuất muối bị bỏ hoang.
Theo báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, lý giải cho thực trạng trên có thể thấy do việc sản xuất muối của nước ta hiện nay chủ yếu vẫn theo phương pháp thủ công, quy mô phân tán theo hộ diêm dân (chiếm tới 69% diện tích), nên năng suất, chất lượng muối thấp.
Chất lượng và số lượng muối tại các đồng muối công nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu của ngành công nghiệp hóa chất, nên vẫn phải nhập khẩu muối công nghiệp. Lượng muối của các đồng muối công nghiệp chủ yếu phục vụ chế biến muối tinh, cung cấp muối cho ngành công nghiệp chế biến thực phẩm nên cạnh tranh trực tiếp với muối do diêm dân sản xuất.
Thứ nữa, có thể thấy, tại một số vùng sản xuất muối của nước ta có điều kiện tự nhiên rất thuận lợi cho phát triển sản xuất muối quy mô công nghiệp nhưng chưa được quan tâm đầu tư phát triển.
Đáng chú ý, vấn đề khó khăn trong liên kết sản xuất muối cũng là một nguyên nhân dẫn đến ngành muối Việt Nam chưa có thế mạnh cạnh tranh. Và đây cũng chính là lý do hiện nay mặc dù có nhiều nhà đầu tư muốn tham gia vào ngành chế biến muối, tuy nhiên, do chưa có sự liên kết nên việc thu hút đầu tư vào rất khó.
Ví dụ tại tỉnh Bạc Liêu, hiện hoạt động của các hợp tác xã trong lĩnh vực diêm nghiệp còn gặp nhiều khó khăn do muối làm ra chỉ bán được cho thương lái, chưa có hợp đồng ký kết giữa hai bên, chưa liên kết được với các doanh nghiệp thu mua của địa phương.
Trong khi đó, các doanh nghiệp sản xuất chế biến muối trên địa bàn tỉnh chưa có nhiều hoạt động trong việc liên kết tiêu thụ, bao tiêu sản phẩm cho các hợp tác xã, tổ hợp tác và diêm dân sản xuất muối. Nguyên nhân do giao thông đi lại và vận chuyển, mua bán trao đổi muối của diêm dân sản xuất tại đồng ruộng tới khu chế biến, bảo quản của các doanh nghiệp rất khó khăn, làm tăng thêm chi phí giá thành sản xuất.
Mặt khác, hiện nay, tất cả cơ sở vật chất phục vụ sản xuất muối của diêm dân đều đã xuống cấp, thậm chí hư hỏng nghiêm trọng, dẫn đến năng suất muối không cao. Cùng với sản xuất phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thời tiết, đặc biệt trước những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, mưa nắng thất thường đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến nghề sản xuất muối phơi nước hiện nay. Sản lượng muối cung cấp cho các cơ sở chế biến không ổn định, ảnh hưởng đến sự gắn bó, liên kết giữa diêm dân và các doanh nghiệp.
Theo ông Bùi Sơn Long, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Công nghệ Muối biển: “Nhu cầu muối trong nước rất cao nhưng tại sao chúng ta không phát triển được? Điều này do hầu hết là chúng ta làm muối giống nhau, mặc dù có lợi thế nhưng làm muối thô, làm giống nhau nên cạnh tranh rất khó.”
Phân tích thêm về nguyên nhân của nghịch lý ngành muối hiện nay, bà Nguyễn Thu Thủy, Trưởng ban phát triển dự án thuộc Tập đoàn BIM Group cho rằng, do việc hạ tầng đồng muối không được đầu tư nâng cấp đồng bộ nên đã ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng muối, dẫn đến giá thành bán không cạnh tranh được với muối nhập khẩu.
Cùng với đó là việc chúng ta còn chủ yếu sản xuất muối thô, chưa đáp ứng được khoa học công nghệ để đưa vào chuỗi sản xuất; khâu lưu trữ, vận chuyển logistics còn yếu. Số lượng doanh nghiệp lớn đầu tư vào ngành muối vẫn còn hạn chế, chất lượng muối chưa được đồng đều, giá cả đầu ra còn bấp bênh,…
Cùng với những khó khăn trên, hiện nay, thị trường muối gần như chưa có sự quảng bá thương hiệu, chỉ dẫn địa lý nên chưa xuất hiện các thương hiệu mạnh có tính chủ đạo, dẫn dắt,…Việc cho các hộ diêm dân vay vốn đầu tư sản xuất muối cũng khó triển khai, vì thu nhập từ sản xuất muối thấp nên nhiều hộ dân gặp khó khăn trong vấn đề trả nợ Ngân hàng đúng thời hạn quy định.
Chính việc giá bán muối thấp cũng là nguyên nhân lý giải tại sao nhiều diêm dân không mấy mặn mà với sản xuất muối nên đã bỏ ruộng để chuyển sang công việc khác có thu nhập cao hơn.
Nâng tầm muối Việt
Thông tin trên Bnews, để nâng tầm muối Việt, thì việc đổi mới công nghệ, đa dạng hóa sản phẩm, giúp người tiêu dùng hiểu đúng về các sản phẩm muối… là những giải pháp được các chuyên gia, doanh nghiệp đưa ra.
Theo thống kê đến nay, cả nước có 73 cơ sở chế biến muối tinh, muối trộn i-ốt, muối sạch xuất khẩu... Trong số đó, 13 sơ sở chế biến muối (chiếm 19,7%) đã đầu tư ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công suất 15.000 - 22.000 tấn/năm và 1 cơ sở đã đầu tư 2 dây chuyền thiết bị đồng bộ nhập khẩu của Tây Ban Nha có công suất 200.000 tấn/năm.
Các cơ sở này có hạ tầng tương đối đồng bộ, đảm bảo các điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm nên chất lượng muối chế biến được nâng cao và mang lại hiệu quả trong sản xuất chế biến muối.
Ông Lục Mạnh Tùng, Công ty cổ phần Đầu tư và thương mại Agritech cho biết, doanh nghiệp đã cùng Bộ NN&PTNT xây dựng dự án hỗ trợ cho diêm dân. Vấn đề đầu tiên doanh nghiệp nhận thấy cần phải làm là nâng cao năng lực dự trữ muối cho nông dân, hợp tác xã.
Hiện công ty đang cùng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn xây dựng quỹ hợp tác xã. Nguồn vốn từ quỹ này sẽ cho các hợp tác xã vay vốn, bởi các hợp tác xã hiện nay khó khăn nhất là tiếp cận các nguồn tài chính, các khoản vay vốn.
Về thị trường muối hiện nay, ông Hồ Xuân Vinh, Giám đốc công ty TNHH ABACA Việt Nam cho rằng, người tiêu dùng Việt Nam đang đánh đồng các sản phẩm muối mà chưa biết rõ đến chất lượng của từng loại. Nhiều doanh nghiệp sản xuất muối đã đầu tư trang thiết bị máy móc hiện đại để đưa ra sản phẩm muối đa dạng với nhiều giá trị mang lại lợi ích khác nhau cho người tiêu dùng. Nhưng để người tiêu dùng tìm hiểu và chọn lựa những sản phẩm chất lượng vẫn đang là một bài toán khó.
Theo các chuyên gia, phát triển các sản phẩm muối cần đa dạng hơn như muối hầm, muối cho người ăn kiêng, muối làm đẹp… Hiện tại sản phẩm muối biển sạch giàu vi lượng có lợi sức khỏe của Việt Nam đã xuất khẩu sang một số nước như: Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc... nhưng số lượng chỉ ở vài chục nghìn tấn mỗi năm. Các doanh nghiệp đang thúc đẩy, tìm kiếm thị trường nước ngoài để xuất khẩu muối nhằm đem lại giá trị kinh tế cao hơn.
Ông Vinh mong muốn trong thời gian tới, Bộ NN&PTNT sẽ là đầu mối kết nối các doanh nghiệp với các dự án muối để tiếp cận và phát triển nghề muối, xây dựng chuỗi giá trị nhằm ổn định thu nhập cho người nông dân. Qua đó cũng đẩy mạnh truyền thông, quảng bá những sản phẩm chất lượng, an toàn tới người tiêu dùng.
Bên cạnh đó, ông Vinh cũng đề xuất Bộ NN&PTNT có những hỗ trợ trong xây dựng và hoàn thiện các quy định, tiêu chí để đảm bảo chất lượng muối.
Theo ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, để phát triển ngành muối theo hướng hiệu quả, bền vững trên cơ sở tận dụng tối đa lợi thế của các địa phương có truyền thống sản xuất muối; nâng cao năng suất, chất lượng và đa dạng hóa các loại sản phẩm về muối đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu, nâng cao thu nhập cho người dân làm muối, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1325/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển ngành muối giai đoạn 2021-2030.
Triển khai để án trên, Bộ NN&PTNT triển khai xây dựng Đề án nâng cao chất lượng và chuỗi giá trị ngành hàng muối Việt Nam giai đoạn 2021 – 2025, Đề án được thực hiện trên địa bàn của 7 tỉnh: Nam Định, Thái Bình, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bến Tre, Bạc Liêu.
Với các dự án như: đầu tư nâng cấp, cải tạo cơ sở hạ tầng; xây dựng mô hình khuyến diêm, thúc đẩy liên kết và cơ giới hóa; chế biến đa dạng hóa sản phẩm gắn với xây dựng chuỗi liên kết tiêu thụ; xây dựng thương hiệu, chỉ dẫn địa lý, xúc tiến thương mại nhằm đảm bảo phát triển ngành muối theo hướng hiệu quả, bền vững, tạo việc làm, nâng cao thu nhập, ổn định đời sống của diêm dân. Ngành muối Việt Nam từng bước tiến lên hiện đại ngang tầm các nước khu vực, thỏa mãn nhu cầu muối trong nước, từng bước thay thế lượng muối nhập khẩu.
Không chỉ tạo giá trị kinh tế, hương vị muối còn chứa đựng hồn của đất vàng biển bạc. Tích hợp ứng dụng khoa học kỹ thuật, sản xuất gắn với tập quán canh tác, mang đậm bản sắc dân tộc của mỗi vùng miền vào giá trị sản phẩm, hay những trải nghiệm du lịch trên các cách đồng muối trắng tạo nên những giá trị, nét đẹp riêng có của muối Việt Nam trên thị trường thế giới.
Minh Hoa (t/h)