'Độc quyền trọn đời bài hát': vi phạm và chế tài
Trần Thị Băng Thanh (*)
(KTSG) - Thời gian gần đây, trên các diễn đàn nổi lên chuyện nghệ sĩ mua “độc quyền trọn đời bài hát” từ nhạc sĩ sáng tác, sau khi bài hát đã kết thúc hợp đồng “độc quyền” và may mắn gây được tiếng vang cũng như gắn liền với tên tuổi của một ca sĩ.
Để ý sẽ thấy cứ mỗi khi có sự việc xảy ra, cộng đồng mạng lại bị cuốn vào vòng xoáy tranh luận, cũng bởi nhiều người chưa hiểu rõ khái niệm “độc quyền trọn đời bài hát” trong pháp luật, cũng như về hậu quả pháp lý nếu có ai đó vi phạm “độc quyền trọn đời bài hát”.
Thế nào là “độc quyền trọn đời đối với bài hát”?
Theo Luật Sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả; chủ thể quyền SHTT là chủ sở hữu quyền SHTT hoặc tổ chức, cá nhân được chủ sở hữu chuyển giao quyền SHTT. Trong đó, quyền tác giả là quyền đối với tác phẩm do chính tổ chức, cá nhân sáng tạo ra hoặc sở hữu, bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản.
Bài hát là sản phẩm trí tuệ do nhạc sĩ tạo ra bằng thời gian, công sức, tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật của người sáng tạo, vì thế nhạc sĩ được xem là tác giả bài hát, có quyền nhân thân và quyền tài sản đối với bài hát. Các quyền này sẽ do tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện.
Khi tổ chức hay cá nhân khai thác, sử dụng quyền tài sản và quyền công bố tác phẩm thì phải xin phép và trả nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả. Đặc biệt, đối với các tác phẩm âm nhạc không khuyết danh, quyền công bố (hoặc cho phép người khác công bố) tác phẩm và các quyền tài sản đối với tác phẩm có thời hạn bảo hộ là suốt đời tác giả và 50 năm tiếp theo năm tác giả qua đời; nếu tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ sẽ chấm dứt vào năm thứ 50 sau năm đồng tác giả cuối cùng qua đời.
Như vậy, khi một bài hát được nhạc sĩ sáng tác thì nó đã thuộc độc quyền sở hữu và sử dụng của nhạc sĩ đó và chỉ có “anh ta” có quyền cho phép người khác thực hiện quyền tài sản đối với bài hát. Những quyền vừa nêu của nhạc sĩ sẽ được Luật SHTT bảo hộ kể cả khi nhạc sĩ không nộp đơn để được cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, vì quyền tác giả đã phát sinh ngay khi bài hát được sáng tạo ra và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký.
Tuy nhiên, nhạc sĩ vẫn có thể đăng ký quyền tác giả với Cục Bản quyền tác giả giúp tăng cường khả năng bảo vệ quyền lợi, chứng minh quyền của nhạc sĩ khi có tranh chấp.
“Mua bán độc quyền trọn đời bài hát”: hiểu thế nào cho đúng?
“Mua bán bài hát” là cụm từ chỉ việc chủ sở hữu quyền tác giả chuyển giao quyền sở hữu, quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố và các quyền tài sản cho tổ chức, cá nhân khác theo hợp đồng, thỏa thuận hoặc theo quy định. Tuy nhiên, tác giả không được phép chuyển nhượng các quyền nhân thân gồm: (i) quyền đặt tên; (ii) quyền đứng tên thật hoặc bút danh, quyền được nêu tên hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; và (iii) quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm.
Như vậy, nhạc sĩ có thể “bán” quyền tài sản đối với bài hát và giữ lại quyền nhân thân được pháp luật bảo hộ vô thời hạn để chỉ còn vai trò là tác giả bài hát; còn người mua sẽ trở thành chủ sở hữu quyền tác giả bài hát. Và vì bên mua đã “mua trọn đời” bài hát nên sẽ được bảo hộ quyền tài sản suốt đời nhạc sĩ và 50 năm tiếp theo năm nhạc sĩ qua đời.
Nếu trước đó, nhạc sĩ đã đăng ký quyền tác giả thì bên “mua độc quyền trọn đời bài hát” phải đăng ký cấp đổi Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả(1). Nếu trước đó nhạc sĩ chưa đăng ký quyền tác giả, bên mua có thể đăng ký xin cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả đối với các quyền tài sản đối với bài hát được mua.
Các hành vi “vi phạm độc quyền bài hát” phổ biến
Hành vi “vi phạm độc quyền bài hát” có thể hiểu là sự xâm phạm quyền tác giả, tức việc cá nhân, tổ chức không phải là tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, không có thẩm quyền hoặc không được cho phép vẫn tự ý khai thác, sử dụng các quyền thuộc quyền tác giả trong thời gian được bảo hộ, kể cả việc sử dụng trên Internet(2).
Hành vi vi phạm phổ biến nhất là “sử dụng tác phẩm không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả, không trả tiền nhuận bút, thù lao và các quyền lợi vật chất khác theo quy định của pháp luật”. Đó thường là các tình huống ca sĩ biểu diễn bài hát mà chưa xin phép nhạc sĩ sáng tác; ca sĩ lợi dụng việc đã xin phép nhạc sĩ hoặc được “độc quyền” sử dụng bài hát với mục đích biểu diễn nhưng lại không sử dụng bài hát đúng với mục đích biểu diễn và không trả tiền nhuận bút cho nhạc sĩ.
Bên cạnh đó, khi mạng xã hội bùng nổ, một trong những vi phạm phổ biến nhất là hành vi biểu diễn trước công chúng bằng cách tự quay và đăng tải hình ảnh lên YouTube, tự phát sóng trực tiếp (livestream) cũng như hát trên mạng xã hội mà không được nhạc sĩ cho phép.
Ngoài ra, khi livestream và hát bài hát trên mạng xã hội, nếu người biểu diễn có hành vi sửa chữa, thay lời bài hát mà không được nhạc sĩ cho phép thì sẽ bị xem là làm ra tác phẩm phái sinh, vi phạm quyền bảo vệ sự toàn vẹn tác phẩm.
Cũng xin lưu ý trong trường hợp bài hát được “bán độc quyền trọn đời” sau khi kết thúc hợp đồng độc quyền trước đó và may mắn gây được tiếng vang gắn liền với tên tuổi một ca sĩ khác, thì việc ca sĩ khác đó tiếp tục sử dụng bài hát trong các buổi biểu diễn có người xem sẽ bị coi là “vi phạm độc quyền bài hát” về quyền biểu diễn trước công chúng của nghệ sĩ đã “mua độc quyền trọn đời bài hát”.
Biện pháp bảo vệ và xử lý xâm phạm “độc quyền bài hát”
Theo Luật SHTT, chủ sở hữu quyền tác giả có quyền áp dụng các biện pháp tự bảo vệ quyền của mình: (i) sử dụng biện pháp công nghệ để ngăn ngừa hành vi xâm phạm; (ii) yêu cầu chấm dứt hành vi, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại; (iii) yêu cầu cơ quan nhà nước xử lý hành vi đó; (iv) khởi kiện người vi phạm ra tòa án hoặc trọng tài(3).
Trên thực tế, có thể có những cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm nhưng họ lại chưa biết đó là vi phạm. Cho nên, trước khi tiến hành biện pháp pháp lý để bảo vệ quyền lợi, chủ sở hữu quyền tác giả có thể liên hệ tổ chức, cá nhân vi phạm để trao đổi.
Cũng theo Luật SHTT, tùy tính chất, mức độ mà các hành vi xâm phạm “độc quyền bài hát” có thể bị xử lý bằng các biện pháp hành chính, hình sự, dân sự.
Thứ nhất, việc xử phạt hành chính khi có yêu cầu từ chủ thể quyền SHTT hay tổ chức, cá nhân khác đã phát hiện hoặc bị thiệt hại do “vi phạm độc quyền bài hát”, hoặc khi cơ quan nhà nước phát hiện. Mức xử phạt tối đa đối với cá nhân là 250 triệu đồng, đối với tổ chức là 500 triệu đồng, và còn có thể yêu cầu áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả (như phải sửa lại cho đúng tên tác giả, tác phẩm, người biểu diễn; dỡ bỏ bản sao tác phẩm vi phạm dưới hình thức điện tử, trên môi trường mạng và kỹ thuật; buộc hoàn trả cho chủ sở hữu tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật chất khác).
Thứ hai là về trách nhiệm hình sự. Theo Điều 225 Bộ luật Hình sự, nếu một cá nhân không được phép của chủ thể quyền tác giả lại cố ý sao chép tác phẩm hoặc phân phối đến công chúng bản sao tác phẩm với quy mô thương mại hoặc thu lợi bất chính từ 50 triệu đồng đến dưới 300 triệu đồng, hoặc gây thiệt hại từ 100 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng, hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 100 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng thì bị xem là phạm tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan.
Tội này bị phạt tiền từ 50-300 triệu đồng, hoặc bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm. Đối với pháp nhân đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi phạm tội nêu trên hoặc đã bị kết án về tội này nhưng chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì bị phạt tiền từ 300 triệu đồng đến 1 tỉ đồng.
Thứ ba, khi có hành vi “vi phạm độc quyền bài hát”, kể cả hành vi đó đã hoặc đang bị xử lý bằng biện pháp hành chính hoặc hình sự, nhưng khi có yêu cầu của chủ thể quyền SHTT hoặc của tổ chức, cá nhân bị thiệt hại, tòa án vẫn có quyền áp dụng các biện pháp dân sự như: (i) buộc người vi phạm phải chấm dứt hành vi xâm phạm; (ii) buộc xin lỗi, cải chính công khai; (iii) buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; (iv) buộc bồi thường thiệt hại; (v) buộc tiêu hủy; (vi) buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại, không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền SHTT.
(*) Công ty Luật Phuoc & Partners
(1) Khoản 4 Điều 35 Nghị định 22/2018/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật SHTT 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT 2009 về quyền tác giả, quyền liên quan.
(2) Xem thêm các quy định cụ thể về các hành vi xâm phạm quyền tác giả tại Điều 28 Luật SHTT 2005.
(3)Tham khảo thêm Điều 198 Luật SHTT 2005 được bổ sung bởi Khoản 10 Điều 2 Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật SHTT sửa đổi 2019, khoản 2, 3 Điều 21, Chương 3 Nghị định 105/2006/NĐ-CP
Xem thêm: lmth.-iat-ehc-av-mahp-iv-tah-iab-iod-nort-neyuq-cod/970813/nv.semitnogiaseht.www