Tiến sĩ Alan Phan là một trong những tên tuổi hàng đầu trong khối giáo dục quốc tế có mặt tại Việt Nam với hành trang 22 năm kinh nghiệm làm hiệu trưởng nhiều trường quốc tế từ Chennai đến Thượng Hải, từ London đến Tây Ban Nha.
Ts Phan cho hay muốn đem ngọn lửa giáo dục về quê hương, khao khát tạo dựng những công dân Việt toàn cầu biết tự hào mình là người Việt Nam.
Tôi rời Việt Nam khi tròn tám tuổi và đến nước Mỹ. Khi đó cha mẹ tôi không biết nói tiếng Anh và rất nghèo. Tiếng Anh khi ấy như một "tấm vé hòa nhập" mà bất cứ người nhập cư nào cũng cần đến. Nhưng dù có hòa nhập đến đâu, tôi vẫn không thể quên được tiếng mẹ đẻ. Khi trở về Việt Nam, tôi lập tức cảm thấy thương quen như được về nhà. Tôi muốn ươm mầm niềm tự hào đó cho học trò tôi để các em biết tự hào về xuất thân của mình, về một nền văn hóa giàu bản sắc và có lịch sử lâu dài.
Khi về Việt Nam tôi chứng kiến một quan điểm nhầm lẫn phổ biến là mọi người nghĩ rằng trẻ chỉ cần biết nói tiếng Anh và chỉ giỏi tiếng Anh mới trở thành công dân toàn cầu. Có nhiều gia đình Việt Nam, đang sống ở Việt Nam nhưng con lại không biết nói tiếng Việt vì cha mẹ chỉ muốn nói tiếng Anh để "luyện" cho con. Khiến trẻ dần mất ngôn ngữ, mất đi bản sắc dântộc và danh tính, và cuối cùng là mất văn hóa.
Điều đó khiến tôi thấy buồn. Tôi tin rằng ta cần xây dựng nền tảng tiếng Việt cho trẻ trước, nuôi dưỡng lòng tự hào đó của bé với ngôn ngữ của mình, không nên vì tiếng Anh mà ta tước bỏ tiếng mẹ đẻ của bé.
Tại sao cha mẹ không nghĩ bé sẽ sở hữu cả hai ngôn ngữ cùng lúc? Nếu chỉ biết nói tiếng Anh thì khi con quay về Việt Nam để làm ăn, để lãnh đạo công ty gia đình, để sáng lập công ty riêng thì sao?
Nhiều nhân viên của con vẫn là người Việt, con vẫn cần hiểu họ. Nếu chỉ biết mỗi tiếng Anh, con có lẽ phải sống ở nước ngoài hoặc chỉ có thể làm công ty nước ngoài. Vậy có phải ta đã loại bỏ một cơ hội của trẻ vì chỉ có một ngôn ngữ không?
Ở NLCS TPHCM, chúng tôi giảng dạy tất cả các bài học bằng 2 ngôn ngữ, cả tiếng Việt và tiếng Anh do 2 giáo viên (1 giáo viên Việt Nam và 1 giáo viên nước ngoài) cùng phụ trách.
Chúng tôi đảm bảo rằng, tất cả các học sinh của chúng tôi sẽ xuất sắc như những học sinh NLCS quốc tế, đặc biệt là các con sẽ giỏi tiếng Việt và thành thạo tiếng Anh hơn cả những học sinh các trường quốc tế đơn ngữ khi ứng dụng mô hình song ngữ từ trường NLCS Jeju (Hàn Quốc) vào giảng dạy.
Tôi nghĩ ba mẹ đã đánh giá thấp con trẻ. Nếu chỉ có một phụ huynh nói tiếng Việt, người còn lại nói tiếng Anh, bé sẽ nhanh chóng học cả hai ngôn ngữ cùng lúc. Thậm chí, nếu trong môi trường của bé có thêm một ngôn ngữ thứ ba, bé sẽ học luôn cả ngôn ngữ thứ ba.
Tất cả những hiểu biết này đều đã có nhiều đề tài nghiên cứu chứng nhận. Não của trẻ nhỏ cực kỳ dễ thích nghi, ngay lập tức tiếp nhận bất cứ ngôn ngữ xung quanh và bé sẽ học tất cả các ngôn ngữ này cùng lúc.
Phần mà cha mẹ thấy bé "chậm" là phần phát triển tiếng nói. Khi nhìn thấy vậy cha mẹ nghĩ ồ con mình chậm quá rồi, nhưng điều này rất bình thường trong quá trình phát triển ngôn ngữ.
Cháu của tôi có cha là người Mexico, cháu sống với ba mẹ tôi nói tiếng Việt, và người lớn trong nhà nói tiếng Anh với nhau. Cháu nói chậm hơn các bạn cùng lứa. Nhưng ngay khi vừa tròn ba tuổi, lập tức cháu nói cả ba ngôn ngữ cùng lúc. Vì cháu đang tìm cách kết nối trong đầu và xem mình nên nói tiếng gì với ai đây.
Về mặt kỹ thuật, bé có thể sẽ nói chậm hơn. Có những nghiên cứu cho thấy khi bé phải chọn ngôn ngữ để nói, nhận thức của bé phát triển sớm hơn so với khi chỉ có một ngôn ngữ. Não của bé phải làm việc để chọn lựa liên tục giữa hai ngôn ngữ, sẽ tốn thời gian hơn một chút nhưng điều này thực ra là tốt cho bé.
Bản thân tôi lớn lên ở California, sống trong môi trường hai hoặc nhiều ngôn ngữ đã hơn 30 năm. Và tôi nhận thấy không có vùng cấm nào cả.
Song ngữ là khi bạn học thêm một ngôn ngữ thứ hai. Một số trường dạy tiếng Việt buổi sáng, và tiếng Anh buổi chiều, nội dung học có khi chỉ lặp lại qua hai ngôn ngữ.
Ở NLCS TPHCM, chúng tôi áp dụng phương pháp Ngâm ngôn ngữ [Dual language immersion] tức là dạy cả hai ngôn ngữ cho trẻ trong cùng một lớp học. Ví dụ, khi bé học môn địa lý, thầy giáo nước ngoài sẽ nói "So in HCMC we have districts. How many districts are there in the city?", rồi ngay lúc đó, cô giáo nói tiếng Việt có thể hỏi bé luôn: "Các con có biết vì sao thành phố mình lại chia thành nhiều quận không? Có thành phố nào giống như vậy không?"
Hai giáo viên không "dịch" lại câu nói của nhau, mà hai ngôn ngữ cùng đối thoại với bé với nội dung bổ trợ cho nhau, để tạo ra giao tiếp giàu nội dung và tự nhiên. Bé nghe thấy cả hai từ "quận" và "district" cùng lúc và cùng biết hai từ đó đề cập đến một khái niệm mà bé sẽ tìm hiểu trong bài học. Thầy cô giáo không cần dạy kiểu học thuộc lòng từ vựng "quận" nghĩa là "district".
Cách này gọi là phương pháp "chung thủy với ngôn ngữ", giáo viên sử dụng ngôn ngữ củahọ khi giao tiếp với bé, mô phỏng một môi trường ngôn ngữ thông suốt như trong gia đình đa ngôn ngữ. Bé và thầy cô giáo sẽ tiếp tục phát triển quá trình giao tiếp đó trong suốt ba năm đầu tiên đi học bởi vì chúng tôi muốn bé sẽ phát triển hoàn chỉnh ngôn ngữ vào khoảng 8-9 tuổi.
Sau đó khi trẻ lớn hơn, chúng tôi vẫn sẽ luôn có giáo viên người Việt dạy các môn như lịch sử, địa lý Việt Nam, và sẽ có phần giảng kết nối tri thức lịch sử, địa lý đó với sự vận hành của thế giới. Bé là người Việt, chúng tôi tin rằng bé nên hiểu về lịch sử và vị trí của Việt Namtrên thế giới, từ đó xây dựng tâm thế vững vàng và bản sắc cho bé để trở thành công dân toàn cầu.
Ở NLCS TPHCM, chúng tôi chú trọng từng việc làm nhỏ nhất để đảm bảo một không gian giáo dục văn minh, tiến bộ nhằm kiến tạo những công dân Việt toàn cầu luôn tự tin vào bản sắc của mình. Ví dụ, ở NLCS TPHCM, tất cả người Thầy đều bình đẳng trong không gian giảng dạy, dù đó là người Việt hay người nước ngoài. Bởi chúng tôi tin rằng, các em sẽ nhìn thấy hình ảnh của chính mình thông qua cách hành xử của người lớn.
Tôi muốn các em luôn ghi nhớ rằng người Việt hoàn toàn có khả năng để đảm đương các vị trí quan trọng ngay từ những năm đầu đời để sau này khi đi du học hoặc lớn lên ở phương Tây, các em hoàn toàn tự tin cạnh tranh với bạn bè quốc tế.
Chúng tôi tập trung vào sứ mệnh chăm sóc học trò tận tâm. Thầy cô gặp các con mỗi buổi sáng khoảng 35 phút, trò chuyện với trẻ về bản sắc của trẻ, quan hệ với mọi người xung quanh, những điều xảy ra ở nhà… để chúng tôi hiểu có thể chăm sóc con ra sao.
Mỗi lớp học của chúng tôi tối đa chỉ có 20 em học sinh với sự chăm sóc thường xuyên của 3 người, bao gồm 1 giáo viên chủ nhiệm người Việt, 1 giáo viên chủ nhiệm người nước ngoài và 1 trợ giảng, tỉ lệ giáo viên/học sinh trong một lớp cao nhất tại Việt Nam.
Đây là điều mà khó trường nào có thể thực hiện được. NLCS TP. HCM làm được điều này vì 100% lợi nhuận sẽ tái đầu tư vào trường, tạo nên chất lượng vượt trội trong dạy và học, mang đến những giá trị tốt đẹp nhất cho học sinh.
Tất cả thầy cô tại trường đều thành thật muốn xây dựng tình cảm chân thành với bé. Nếu bé thích một con sâu trong vườn, cô giáo sẽ bảo bé về nhà tìm hiểu thêm và kể lại cho cô nghe về cách con sâu sống và lớn lên. Từ những khích lệ và gợi mở đó, bé sẽ bắt đầu hành trình tự học đến suốt đời.
Trường NLCS TPHCM của chúng tôi là trường chọn. Các bé vào học đã có tiềm năng rất tốt, không phải chỉ chuyện điểm số hay bài học, mà còn ở phần hành vi, như việc bé yêu thích học hỏi, khám phá, tự tin.
Mức độ học thuật của trường cũng cao hơn. Đa số các trường dạy đến trình độ trung bình. Chúng tôi dạy các bé đến trình độ dẫn đầu.
Chúng tôi ứng dụng thuật ngữ "Zone of Proximal Development" mà nhà tâm lý học Lev Vygotsky đưa ra, là nếu bạn dạy trẻ tri thức hơi cao hơn một chút so với trình độ của trẻ, trẻ cần phải vất vả một chút, học cách xoay sở, học cách phạm lỗi, bộ não như vậy mới có thể học cái mới. Nếu ta chỉ dạy bé ở đúng trình độ của bé, một số em sẽ nhanh chán.
Chúng tôi muốn chắc chắn bé không thấy chán, không bỏ cuộc, và chúng tôi thách thức bé đi tìm câu trả lời cho những gì bé chưa biết và bé phải học cách suy nghĩ, tìm câu trả lời ngay từ khi còn nhỏ.
Đó là cách khiến cho các trường NLCS ở Anh quốc, Jeju, Dubai tạo dựng những học sinh có kết quả học tập cực kỳ tốt thuộc top 1% thế giới. Tại NLCS Jeju, 95% học sinh mang quốc tịch Hàn Quốc đã đạt điểm IB là 39/45 trong năm năm 2021 - vượt chuẩn trung bình của thế giới ở mức 33/45 điểm.
Chúng tôi muốn sẽ ứng dụng mô hình này tại Việt Nam với tỷ lệ học sinh người Việt là 99%. Và các em cũng sẽ đạt những kết quả đáng tự hào như vậy, để làm nền tảng đưa các em với các trường đại học, các học viện hàng đầu thế giới.
Quá trình tuyển dụng giáo viên của chúng tôi khá dài. Đầu tiên tôi và phó hiệu trưởng phỏng vấn tất cả các giáo viên. Mỗi chúng tôi có hai buổi phỏng vấn với họ. Đến vòng cuối, ứngviên sẽ phỏng vấn trực tiếp với lãnh đạo NLCS ở Anh Quốc. Và khi trúng tuyển, họ sẽ tham dự một khoá đào tạo nghiệp vụ tại trụ sở của trường tại Anh để đảm bảo chất lượng của độingũ giảng dạy đạt chuẩn NLCS toàn cầu.
Chúng tôi khao khát tìm gặp những phụ huynh mong muốn con của mình có thể khám phá về thế giới và bản thân, nhưng vẫn để bé được làm trẻ con. Ở trường tôi, các bé tan trường lúc 16h. Sau đó, xin phụ huynh hãy để bé chơi nhạc, vẽ vời hay chơi thể thao, những thứ khuyến khích sự sáng tạo hơn là học thuật.
Khi chơi thể thao như môn đá bóng, bé sẽ học về cách chơi cùng đồng đội, cách phối hợp, thậm chí học về sự khó chịu khi phải ứng phó với bạn cùng chơi có tính cách khác biệt hay gây hấn. Bé nên được dần học cách ứng phó với những hoàn cảnh đó.
Nếu ba mẹ chỉ tìm cách bảo bọc bé quá kỹ, bé sẽ học kỹ năng này trễ hơn, phải vật lộn nhiều hơn, dễ nổi nóng hơn, hoặc không biết cách phải xử trí tình huống không như ý.
Hãy thành thật rằng cuộc sống ngoài kia sẽ có rất nhiều hoàn cảnh khiến ta khó xử, đầy những người khiến ta vất vả, và nếu bé phát triển kỹ năng đó từ sớm, điều đó sẽ giúp bé rất nhiều trong tương lai. Tất cả những va chạm đó sẽ khích lệ thêm tình yêu tự học ở trẻ.
Bài học đó sẽ theo con suốt đời, dù là ở Việt Nam hay bước vào một trường đại học ở Mỹ, Canada hay Anh Quốc, và đó là điều chúng tôi muốn dành cho bé. Một bạn nhỏ hạnh phúc sẽ là bạn nhỏ thành công.