Công nghiệp chế biến, chế tạo ngày càng khẳng định được vai trò quan trọng trong nền kinh tế với mức đóng góp trong GDP trên 16% và cơ cấu ngành công nghiệp đã có những chuyển biến tích cực. Kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp chiếm tới hơn 90% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Sản phẩm có hàm lượng công nghệ giá trị thấp
Tuy nhiên, vướng mắc của nền công nghiệp Việt Nam được cho là nội lực còn yếu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn phụ thuộc quá lớn vào các DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Các DN trong nước vẫn chưa làm chủ và cạnh tranh được về công nghệ nguồn trong sản xuất, chưa có sản phẩm công nghiệp thương hiệu Việt Nam có hàm lượng công nghệ và giá trị cao, nên quá trình tham gia sâu vào các chuỗi giá trị toàn cầu còn nhiều hạn chế.
Ông Phạm Tuấn Anh, Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương) thừa nhận, thực tế phát triển công nghiệp của Việt Nam còn nhiều hạn chế và mất cân đối. Công nghiệp nặng được coi là sản xuất ra nhiều sản phẩm, cơ bản cho nền kinh tế, đóng góp lớn vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng trong những năm qua mức đóng góp lại rất thấp.
“Sản xuất công nghiệp phụ thuộc nguyên liệu nhập khẩu nên tạo ra sản phẩm công nghiệp thiếu sự cạnh tranh, giá trị gia tăng không cao. Việc chuyển đổi, chuyển dịch cơ cấu sản xuất công nghiệp vẫn đến từ khu vực của các DN FDI, khiến nền công nghiệp chưa tận dụng được những lợi thế cạnh tranh từ việc kết nối giữa khu vực kinh tế với các địa phương để tạo ra các chuỗi sản xuất công nghiệp”, ông Tuấn Anh chia sẻ.
Những năm qua, hóa chất là một ngành công nghiệp nền tảng, đóng vai trò là nguyên liệu đầu vào cho nhiều ngành công nghiệp quan trọng và cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu trong nước. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Hữu Tú, Thành viên HĐTV Tập đoàn Hóa chất Việt Nam, dư địa để phát triển của ngành còn rất lớn về những sản phẩm chất lượng cao, những sản phẩm đòi hỏi công nghệ cao, những sản phẩm mới nên cần tiếp tục phải nghiên cứu để đáp ứng nhu cầu thị trường cũng như cho xuất khẩu.
“Các sản phẩm của ngành hóa chất là một trong những sản phẩm đặc trưng, có tính cạnh tranh và hội nhập quốc tế hết sức sâu sắc. Trong quá trình hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng với càng nhiều hiệp định thương mại được ký kết đã tạo ra những cơ hội cho ngành, nhưng cũng đặt ra những thách thức khiến ngành phải cạnh tranh với các tập đoàn quốc tế, những sản phẩm ngoại nhập”, ông Tú cho biết.
Là ngành đứng đầu ASEAN về sản lượng sản xuất cũng như lượng tiêu thụ, ngành công nghiêp thép hiện nay được coi là khá hoàn chỉnh từ thượng nguồn (quặng sắt) đến hạ nguồn là sản phẩm tinh với thứ hạng 13 thế giới về sản lượng thép thô. Tuy nhiên theo ông Đinh Quốc Thái, Tổng thư ký Hiệp hội Thép Việt Nam, với sản lượng năm khoảng 30 triệu tấn thép thành phẩm các loại, nhưng đến 90% cung cấp cho nhu cầu xây dựng.
“Một số lĩnh vực vẫn còn phải nhập khẩu thép làm nguyên liệu đầu vào như thép hợp kim, thép dụng cụ, thép trong các cấu kiện và phụ tùng thiết bị… nên dư địa để hợp tác giữa ngành thép với các ngành khác để cung ứng thép thay thế hàng nhập khẩu vẫn còn lớn”, ông Thái cho biết.
Sản xuất tự chủ, sản phẩm đa dạng
Để phát triển công nghiệp trong thời gian tới, nhiều ý kiến cho rằng ngoài việc tự chủ sản xuất, các DN cần kết hợp với những thành tựu của Cách mạng công nghiệp 4.0. Trong đó, xu thế xanh hóa sản phẩm trong quy trình sản xuất chắc chắn là mục tiêu được hướng đến để đảm bảo phát triển bền vững.
Tổng thư ký Hiệp hội Thép Việt Nam - ông Đinh Quốc Thái cho rằng, bài toán cần giải của ngành công nghiệp thép không hẳn là vấn đề về năng lực sản xuất, mà ở câu chuyện đáp ứng nhu cầu thép hợp kim, thép chế tạo phục vụ cho hộ tiêu dùng cuối cùng ở các ngành, lĩnh vực kinh tế có số lượng nhỏ mang tính hoàn thiện chi tiết.
Chính vì thế theo ông Thái cần có một ngành công nghiệp trung gian, đó chính là công nghiệp hỗ trợ. Công nghiệp hỗ trợ sẽ là cầu nối giữa ngành công nghiệp thép với các ngành sử dụng thép cuối cùng. “Để làm được điều này, các DN thép cần chủ động nguyên vật liệu đầu vào để có kế hoạch cân đối cho sản xuất. DN cần nỗ lực đầu tư sáng tạo để đổi mới công nghệ cũng như đa dạng hóa sản phẩm, đáp ứng các nhu cầu ngày càng cao của các ngành, các lĩnh vực”, ông Thái cho biết.
Theo ông Phạm Tuấn Anh, trong thời gian tới để hình thành các tập đoàn công nghiệp lớn tại Việt Nam, quá trình đầu tư cần hướng đến trọng tâm, trọng điểm không dàn trải; tập trung vào những ngành, lĩnh vực công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên.
“Bộ Công Thương cũng sẽ kiến nghị Chính phủ xây dựng những khu, cụm liên kết ngành quy mô lớn, từ đó thu hút đầu tư cũng như xây dựng những chuỗi sản xuất công nghiệp. Trong đó có những chính sách xây dựng các tập đoàn mang tính dẫn dắt các ngành công nghiệp hỗ trợ đi theo”, ông Tuấn Anh đề cập./.
Xem thêm: vov.356869tsop-mat-gnux-coul-neihc-oc-auhc-peihgn-gnoc-neirt-tahp/et-hnik/nv.vov