Giai đoạn 2021-2025, chúng ta đứng trước nguy cơ thiếu điện do nhu cầu sử dụng điện năng tăng cao trong khi nhiều dự án điện chậm tiến độ.
Nguy cơ thiếu điện vì các dự án chậm tiến độ
Theo báo cáo của bộ Công Thương về "thực trạng, giải pháp phát triển điện lực đến năm 2030 nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội", do nhiều nguồn điện lớn bị chậm tiến độ, nên vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với công tác cung ứng điện trong giai đoạn 2021-2025.
Theo đó, các dự án nguồn điện, đặc biệt là các dự án ngoài Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) thường bị chậm so với quy hoạch, kế hoạch ảnh hưởng nghiêm trọng tới việc đảm bảo cung ứng điện trong thời gian tới: Theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh, giai đoạn 2016-2030 có tổng cộng 116 dự án nguồn điện cần được đầu tư và đưa vào vận hành.
Sau 4 năm thực hiện, nhiều dự án đã không được thực hiện như: Quốc hội thông qua chủ trương dừng thực hiện các dự án Điện hạt nhân tại Ninh Thuận (4.600MW); các dự án điện than ở Bạc Liêu, Quảng Ninh, Hà Tĩnh, Long An, Tiền Giang, trong khi nhiều địa phương khác đề nghị bổ sung các trung tâm điện khí mới như Bạc Liêu, Bà Rịa Vũng Tàu, Ninh Thuận...
Nhiều dự án điện BOT bị chậm tiến độ do thời gian chuẩn bị đầu tư, đàm phán bộ hợp đồng BOT kéo dài (Vân Phong I, Vĩnh Tân III, Nghi Sơn II, Vũng Áng II, Nam Định I…).
Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia là Quy hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Việc các địa phương không tuân thủ nghiêm túc Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia sẽ làm cho hệ thống điện phát triển mất cân đối, ảnh hưởng tới độ tin cậy, ổn định và hiệu quả của ngành điện vì trong Quy hoạch điện quốc gia đã chỉ rõ danh mục các dự án được đầu tư theo từng năm, đảm bảo cân đối cung cầu điện trên từng vùng miền, ưu tiên các dự án gần tâm phụ tải để tăng cường an ninh cung cấp, giảm chi phí đầu tư lưới và giảm tổn thất truyền tải.
Bộ đề ra nhiều giải pháp đảm bảo cung ứng điện
Theo Bộ Công Thương để đảm bảo cân đối cung cầu điện từ năm 2021, cần nghiên cứu các giải pháp vận hành để sử dụng tối đa các nguồn điện hiện có và giải pháp tăng cường phát triển các nguồn điện năng lượng tái tạo do có thể triển khai xây dựng nhanh.
Theo đó, Bộ đề xuất chuyển đổi nhiên liệu cho Nhiệt điện Hiệp Phước 375MW từ sử dụng FO sang sử dụng LNG.
Tiếp tục khai thác hợp lý các nguồn điện mặt trời và điện gió. Các nguồn điện này cần được bổ sung sớm để đưa vào vận hành trong các năm từ 2021 - 2023 để bù lại phần điện năng không cung cấp được của các nhà máy nhiệt điện bị chậm tiến độ.
Tiếp tục ký kết các hợp đồng mua bán điện để nhập khẩu điện từ Lào phù hợp với Biên bản ghi nhớ đã ký giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và CHDCND Lào. Đảm bảo tổng công suất nhập khẩu từ Lào năm 2025 khoảng 3.000MW.
Ngoài ra, Bộ đề xuất xem xét tăng sản lượng nhập điện qua cấp điện áp 220 kV từ Trung Quốc.
Tăng cường việc tuyên truyền, triển khai các phương pháp sử dụng tiết kiệm điện.
Dự kiến đến năm 2030, nhiệt điện than đạt khoảng gần 50 ngàn MW chiếm khoảng 33,6% tổng công suất lắp đặt nguồn điện (giảm 9% so với Quy hoạch điện VII điều chỉnh), nhiệt điện khí đạt khoảng 27,8 ngàn MW, chiếm 19% (tăng 4% so với Quy hoạch điện VII điều chỉnh), thủy điện lớn trên 30 MW đạt khoảng 19,2 ngàn MW chiếm 13%, thủy điện nhỏ và năng lượng tái tạo đạt khoảng 38,3 ngàn MW chiếm 27% (cao hơn Quy hoạch điện VII điều chỉnh 6%).
Về cơ cấu điện năng, nhiệt điện than chiếm 42% (thấp hơn Quy hoạch điện VII điều chỉnh 11%), nhiệt điện khí chiếm 27,5% (tăng 10% so với Quy hoạch điện VII điều chỉnh), thủy điện chiếm 12,5%, thủy điện nhỏ và NLTT chiếm 14% (cao hơn Quy hoạch điện VII điều chỉnh 4%), nhập khẩu điện 4% (tăng 3% so với Quy hoạch điện VII điều chỉnh). Tổng điện năng của điện gió và điện mặt trời đến năm 2030 đạt 55 tỷ kWh (vượt mục tiêu tại Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo 4 tỷ kWh).