Cụ thể, trong số 466 ĐBQH có mặt tham gia biểu quyết có 443 đại biểu (chiếm 91,91%) đại biểu tán thành thông qua dự thảo Luật; 16 đại biểu không tán thành (chiếm 3,32%) và 7 đại biểu không tham gia biểu quyết.
Đến 2022, Luật có hiệu lực thi hành
Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi) có hiệu lực từ ngày 1-1-2022 để Chính phủ có thời gian chuẩn bị kỹ lưỡng các văn bản quy định chi tiết. Riêng quy định thời điểm có hiệu lực về nội dung đánh giá sơ bộ tác động môi trường, để thực hiện đồng bộ với thi hành Luật Đầu tư công, thực hiện sớm hơn so với hiệu lực chung của Luật. Theo đó, khoản 3 Điều 29 sẽ có hiệu lực từ ngày 1-2-2021.
Trước đó, trình bày báo cáo tóm tắt giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự luật, Chủ nhiệm UBKHCN&MT Phan Xuân Dũng cho biết, ngày 24-10, Quốc hội đã thảo luận trực tuyến về dự luật. Đa số ý kiến các ĐBQH tán thành với nội dung tiếp thu, chỉnh lý dự luật.
Ngày 5-11-2020, UBTVQH đã chỉ đạo gửi xin ý kiến Quốc hội 4 nội dung còn có ý kiến khác nhau và nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật trình Quốc hội thông qua. Đến ngày 16-11-2020, UBTVQH đã có Báo cáo giải trình tiếp thu số 621/BC-UBTVQH14 và dự thảo Luật BVMT trình Quốc hội thông qua.
Theo đó, với những phương án xin ý kiến Quốc hội như: phân loại dự án theo mức độ tác động đến môi trường (Điều 28, dự luật) t đã được chỉnh lý, bổ sung theo ý kiến của các vị ĐBQH và đổi tên điều thành “Các tiêu chí về môi trường để phân loại dự án đầu tư” để không lẫn với phân loại dự án theo tiêu chí đầu tư.
Về đối tượng thực hiện đánh giá sơ bộ tác động môi trường, UBTVQH tiếp thu và thể hiện như tại Điều 29 của dự luật. Theo đó, chỉ các dự án có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao (Nhóm I) mới phải đánh giá sơ bộ tác động môi trường.
“Phương án này giảm được thủ tục hành chính cho nhà đầu tư khi thực hiện dự án thuộc đối tượng phải quyết định, chấp thuận chủ trương đầu tư nhưng không thuộc nhóm dự án có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao” – ông Dũng nói.
Bớt thủ tục với các dự án không tác động xấu đến môi trường
Cũng theo ông Dũng, đối với các dự án đầu tư công, dự án PPP hoặc dự án đầu tư có nguồn vốn tư nhân không có tác động xấu đến môi trường mức độ cao, nhà đầu tư sẽ không phải đánh giá sơ bộ tác động môi trường. Phương án này không bỏ sót đối tượng là các dự án đầu tư có nguồn vốn tư nhân không thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu tư nhưng lại có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao. Thông qua đánh giá sơ bộ tác động môi trường, nhà đầu tư tránh được lãng phí về tài chính, thời gian trong trường hợp dự án không đáp ứng được yêu cầu về bảo vệ môi trường ở ngay giai đoạn này.
Đối với thẩm quyền thẩm định báo cáo ĐTM, UBTVQH tiếp thu, chỉnh lý theo phương án giao UBND cấp tỉnh chủ trì, phối hợp với các Bộ có liên quan thẩm định báo cáo ĐTM đối với các dự án đầu tư trên địa bàn thuộc thẩm quyền quyết định đầu tư của Bộ, cơ quan ngang Bộ, trừ các dự án thuộc trách nhiệm của Bộ TN&MT, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và thể hiện tại Điều 35 của dự luật
Đặc biệt, để nâng cao năng lực chuyên môn của các địa phương và tăng cường sự phối hợp, dự luật đã bổ sung tại khoản 3 Điều 35 trách nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ trong quá trình phối hợp với UBND cấp tỉnh thẩm định báo cáo ĐTM.
Về giấy phép môi trường, ông Dũng cho hay có ý kiến ĐBQH đề nghị cần quy định rõ, chặt chẽ trong Luật về cơ chế phối hợp giữa cơ quan có thẩm quyền cấp GPMT với cơ quan quản lý, khai thác công trình thủy lợi trong quá trình thẩm định, quyết định cấp GPMT.
“UBTVQH tiếp thu và quy định rõ việc phối hợp này phải được tiến hành ngay từ giai đoạn thực hiện ĐTM; quy định rõ trình tự, thủ tục thẩm định báo cáo ĐTM, cấp GPMT trong trường hợp dự án, cơ sở, khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung, cụm công nghiệp có hoạt động xả nước thải vào công trình thủy lợi, thì cơ quan thẩm định báo cáo ĐTM, cấp GPMT phải lấy ý kiến chấp thuận bằng văn bản của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền quản lý công trình thủy lợi đó” – ông Dũng nói.