Để đánh giá những khác biệt này, The Economist đã tổng hợp dữ liệu về 5 chỉ số kinh tế và tài chính bao gồm GDP, lạm phát, độ rộng lạm phát, hoạt động của thị trường chứng khoán và nợ chính phủ của 34 quốc gia hầu hết là giàu có.
The Economist đã xếp hạng từng nền kinh tế theo mức độ thực hiện đối với từng biện pháp, tạo ra điểm số tổng thể. Bảng bên dưới hiển thị xếp hạng và bao gồm cả một số kết quả không mong muốn.
Bảng xếp hạng các quốc gia của The Economist dựa vào các chỉ số kinh tế |
Đầu tiên, GDP là thước đo tốt nhất về sức khoẻ của các quốc gia. Trong đó, The Economist thống kê GDP của Hy Lạp đã tăng trưởng 2,2% trong năm, đây là mức tăng trưởng tốt nhất trong danh sách.
Được biết, Hy Lạp những năm trước đây đang phải đau đầu xử lý tình trạng nợ công quá cao. Tuy nhiên, thời điểm hiện tại lại là quốc gia tăng trưởng tốt nhất trong 4 quý trở lại đây.
Tăng trưởng tiếp theo trong danh sách 34 quốc gia phát triển chủ yếu là Italy tăng trưởng 1,8%, nước Anh tăng trưởng 1,7%, Tây Ban Nha tăng trưởng 1,5%, Đức tăng trưởng 1,3%.
Trong nhóm quốc gia châu Âu đang gặp khó khăn do ảnh hưởng cuộc khủng hoảng năng lượng từ xung đột giữa Nga và Ukraine. Tuy nhiên, vẫn có một số quốc gia hưởng lợi từ xung đột như Na Uy hưởng lợi từ giá dầu tăng và Thổ Nhĩ Kỳ hưởng lợi từ các biện pháp trừng phạt thương mại của phương Tây đối với Nga.
Ngược lại, trong danh sách, tăng trưởng GDP âm lớn nhất là Estonia, mức tăng trưởng GDP âm 3,1% trong 4 quý gần nhất. Ngoài ra, bên cạnh Estonia cuối bảng, các quốc gia nằm gần cuối bảng cũng phải kể tới Baltic và Latvia.
Thứ hai, lạm phát tiếp tục tăng và duy trì mức cao trong 4 quý trở lại đây, một số quốc gia bắt đầu ghi nhận mức lạm phát trên 2 con số và tiếp tục kéo dài.
Trong đó, lạm phát của Estonia lên tới 16,7%, Italy lên tới 10,8%, Đức lạm phát 10%...
Ngoài ra, một một nước phát triển lớn mặc dù lạm phát không ghi nhận mức hai con số nhưng vẫn duy trì mức cao. Trong đó, lạm phát ở Anh lên tới 8,4%, Hy Lạp ghi nhận 7,8%, Mỹ 6,9%, Pháp 5,6% …
Ngược lại, một số quốc gia đã ghi nhận mức lạm phát khá thấp. Tại Thụy Sĩ, giá tiêu dùng chỉ tăng 3%. Ngân hàng trung ương Thụy Sĩ đã phản ứng nhanh chóng với việc tăng giá vào đầu năm nay.
Điểm đáng lưu ý, các quốc gia không nhập khẩu năng lượng của Nga, chẳng hạn như Tây Ban Nha lấy khí đốt từ Algeria cũng đạt kết quả tốt hơn mức trung bình. Những quốc gia phụ thuộc vào năng lượng từ Nga đa phần đều trải qua mức tăng giá mạnh trong năm nay như Latvia, giá tiêu dùng trung bình đã tăng 20% trong năm nay.
Thứ ba, xét về độ rộng lạm phát khi tính toán tỷ lệ các mặt hàng trong rổ lạm phát của mỗi quốc gia đã tăng hơn 2% trong năm qua. Điều này cung cấp một dấu hiệu cho thấy mức độ lạm phát cố thủ và do đó gợi ý về mức độ lạm phát sẽ giảm nhanh như thế nào vào năm 2023. Tuy nhiên, một số quốc gia có lạm phát cao đã có thể hạn chế độ rộng của lạm phát. Ví dụ, ở Italy, giá tiêu dùng đã tăng 11% trong năm nay, nhưng chỉ 2/3 rổ lạm phát của nước này có lạm phát trên mục tiêu. Lạm phát của Nhật Bản cũng có vẻ như sẽ sớm giảm bớt, trong khi Anh đang gặp nhiều rắc rối hơn, giá của mọi danh mục trong giỏ của nước này đang tăng nhanh.
Thứ tư, về hoạt động của thị trường chứng khoán, trong đó, chủ yếu là xem xét giá trị của các quỹ lương hưu và danh mục đầu tư chứng khoán.
Ở một số quốc gia, 2022 là một năm tồi tệ đối với các loại hình đầu tư này. Giá cổ phiếu ở cả Đức và Hàn Quốc đều giảm gần 20% trong năm nay, cao hơn nhiều so với mức giảm của Mỹ. Chứng khoán Thụy Điển thậm chí còn tệ hơn. Tuy nhiên, thị trường chứng khoán của Na Uy lại tăng. Điều tương tự cũng diễn ra ở Anh, nơi có các công ty làm việc chăm chỉ, có xu hướng được khen thưởng khi thời kỳ kinh tế khó khăn.
Và cuối cùng liên quan đến sự thay đổi trong nợ ròng của chính phủ dựa trên GDP.
Trong ngắn hạn, các chính phủ có thể khắc phục các rạn nứt kinh tế bằng cách tăng chi tiêu hoặc cắt giảm thuế, nhưng điều này có thể tạo ra nhiều nợ hơn, do đó cần phải vặn chặt các vòi tài chính trong tương lai. Một số chính phủ đã chi tiêu xa hoa để đối phó với tình trạng siết chặt chi phí sinh hoạt. Đức đã phân bổ các quỹ trị giá 7% GDP để hỗ trợ chi phí năng lượng, nghĩa là tỷ lệ nợ trên GDP của nước này đã tăng lên. Các quốc gia khác đã rút lui khỏi sự phô trương tài chính, giúp điều chỉnh lại con tàu tài chính. Nợ công ở các nước Nam Âu đang trên đà giảm.
Liệu khoảng cách giữa những quốc gia chiến thắng và thua cuộc của năm 2022 có còn tồn tại vào năm 2023?
Theo The Economist, tăng trưởng kinh tế của Nam Âu chẳng bao lâu nữa sẽ bị đè nặng bởi dân số già đi nhanh chóng và nợ chồng chất, và chắc chắn sẽ quay trở lại mức kém xuất sắc hơn. Có những dấu hiệu cho thấy ở các quốc gia như Mỹ và Anh, lạm phát cao cuối cùng cũng có thể giảm bớt giúp họ thăng hạng trở lại.
Theo các khía cạnh khác, sự khác biệt có thể vẫn tồn tại, đặc biệt là khi nói đến những quốc gia phụ thuộc vào năng lượng của Nga. Ngược lại, nhiều quốc gia đã xoay sở để bổ sung kho dự trữ khí đốt tự nhiên trước mùa đông, nhưng chỉ bằng cách trả giá đắt đỏ. Với việc nguồn cung hiện đã bị cắt giảm đáng kể, năm 2023 sẽ khó khăn hơn rất nhiều. Đó sẽ là những mối quan tâm chính ở các quốc gia vùng Baltic và ít hơn ở châu Âu.