Theo thống kê của Vụ Tài chính ngân hàng - Bộ Tài chính, lũy kế 6 tháng đầu năm 2021, tổng khối lượng phát hành trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) đạt 192.203 tỷ đồng, trong đó TPDN phát hành riêng lẻ đạt 176.828 tỷ đồng, tăng 8% so với cùng kỳ năm 2020; khối lượng phát hành TPDN ra công chúng là 15.375 tỷ đồng, tăng 53% so với cùng kỳ năm 2020. Hiện các tổ chức tín dụng là đối tượng phát hành lớn nhất, chiếm 42,3% tổng khối lượng phát hành, tiếp theo là doanh nghiệp bất động sản, chiếm 24,8% tổng khối lượng TPDN phát hành riêng lẻ 6 tháng đầu năm. Lãi suất phát hành bình quân TPDN 6 tháng đầu năm 2021 giảm 1,6%/năm so với mức bình quân cùng kỳ năm 2020.
Hiện nay, việc phát hành trái phiếu đang trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng phục vụ sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, thị trường trái phiếu Việt Nam mới phát triển mạnh mẽ trong vài năm gần đây nên các nhà đầu tư cần cân nhắc kỹ rủi ro khi quyết định đầu tư TPDN riêng lẻ, tìm hiểu kỹ các điều kiện, điều khoản của trái phiếu và tình hình tài chính của doanh nghiệp phát hành và hết sức thận trọng khi quyết định mua trái phiếu của doanh nghiệp có tình hình tài chính kém, kinh doanh thua lỗ; doanh nghiệp phát hành không có tài sản đảm bảo...
Mới đây, Bộ Tài chính cũng đã có khuyến cáo với nhà đầu tư, yêu cầu họ tự đánh giá rủi ro và tự chịu trách nhiệm về việc mua TPDN riêng lẻ. Đồng thời, khuyến cáo các nhà đầu tư cá nhân nên thận trọng với việc chào mời và cam kết của các tổ chức phân phối trái phiếu, trong đó có việc xác nhận nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, không mua TPDN chỉ vì lãi suất cao. Bộ Tài chính cũng lưu ý các nhà đầu tư rằng, các tổ chức tín dụng, công ty chứng khoán phân phối TPDN không phải là đơn vị đảm bảo an toàn cho việc mua trái phiếu. Hiểu đúng bản chất thì các tổ chức này chỉ là doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, hưởng phí dịch vụ từ doanh nghiệp phát hành mà không chịu trách nhiệm về việc doanh nghiệp có hoàn trả gốc và lãi trái phiếu khi đến hạn hay không. Do đó, rủi ro của trái phiếu vẫn là rủi ro của doanh nghiệp phát hành.
Các công ty chứng khoán tham gia việc phát hành TPDN có thể có lợi ích bằng việc hưởng phí dịch vụ từ doanh nghiệp phát hành, nên nếu khách hàng chỉ tin tưởng vào sự giới thiệu đó mà không có khả năng phân tích tình hình tài chính của các tổ chức phát hành, thì độ rủi ro khi mua trái phiếu sẽ rất cao. Theo Bộ Tài chính, nhà đầu tư đặc biệt lưu ý không mua trái phiếu thông qua chào mời của các tổ chức cung cấp dịch vụ khi chưa tìm hiểu kỹ về tình hình tài chính của doanh nghiệp phát hành và các điều kiện, điều khoản của trái phiếu. Nhà đầu tư trái phiếu cũng cần lưu ý, việc các tổ chức cung cấp dịch vụ như các công ty chứng khoán, ngân hàng thương mại tham gia phân phối TPDN không có nghĩa là các tổ chức này đảm bảo an toàn cho việc đầu tư vào TPDN.
Được biết, theo quy định mới, kể từ ngày 1-1-2023, DN khi chào bán trái phiếu phải bắt buộc xếp hạng tín nhiệm đối với những đợt phát hành có giá trị lớn; trái phiếu sau khi phát hành được niêm yết, giao dịch trên thị trường chứng khoán. Đối với TPDN phát hành riêng lẻ, cơ quan quản lý Nhà nước không cấp phép phát hành trái phiếu như đối với TPDN phát hành ra công chúng, ngoại trừ việc phát hành TP chuyển đổi, TP kèm chứng quyền của công ty đại chúng tại thị trường trong nước.
Bộ Tài chính cũng yêu cầu các tổ chức cung cấp dịch vụ phải ký kết hợp đồng cung cấp dịch vụ về TPDN nêu rõ quyền và trách nhiệm của từng bên. Xác định đúng đối tượng nhà đầu tư chuyên nghiệp mua trái phiếu đối với từng đợt phát hành, tuân thủ quy định của pháp luật về xác định tư cách nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp; cung cấp thông tin đầy đủ cho nhà đầu tư về tình hình tài chính và tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát hành, điều kiện, điều khoản của trái phiếu, các cam kết kèm theo của doanh nghiệp phát hành, tổ chức cung cấp dịch vụ đối với trái phiếu.
Các tổ chức cung cấp dịch vụ được lưu ý không được chào mời nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư cá nhân không chuyên nghiệp bằng mọi giá. Đồng thời, Bộ Tài chính cũng lưu ý các doanh nghiệp huy động vốn qua kênh TPDN phải đưa ra phương án huy động, có biện pháp đảm bảo an toàn tài chính để thực hiện đầy đủ các cam kết đối với nhà đầu tư, sử dụng vốn đúng mục đích nêu trong phương án phát hành và định kỳ có báo cáo về tình hình tài chính và tình hình sử dụng vốn.