Cần ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật
Thời gian qua, ngành công nghiệp khí và thị trường khí đã và đang khẳng định là một thành phần quan trọng của nền kinh tế, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, đáp ứng yêu cầu thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Trong giai đoạn 2010-2020, năng lượng khí của Việt Nam có tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 11,7% xét trên tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng, chiếm tỉ trọng 2,3%.
Tuy nhiên, xét về cơ cấu năng lượng sơ cấp của Việt Nam, tỉ trọng của năng lượng khí đối với tổng nguồn năng lượng sơ cấp đang có xu hướng giảm từ 16,1% năm 2010 xuống 8,2% trong năm 2020.
Tại diễn đàn “Phát triển thị trường khí Việt Nam: Xây dựng thị trường khí Việt Nam cạnh tranh, minh bạch và hiệu quả" sáng 25/8 do Bộ Công Thương tổ chức, ông Trần Duy Đông – Vụ trưởng Vụ thị trường trong nước (Bộ Công Thương) nhấn mạnh, triển khai Nghị quyết số 55 của Bộ Chính trị, ngày 28/12/2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2233 phê duyệt Đề án phát triển thị trường năng lượng cạnh tranh.
Theo đó, mục tiêu tổng quát của Đề án là “Xây dựng, hình thành và phát triển thị trường năng lượng (than, khí và điện lực) cạnh tranh lành mạnh, theo từng giai đoạn và có sự điều tiết của Nhà nước, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, góp phần đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế, xã hội và thực hiện các mục tiêu, chính sách của Đảng và Nhà nước, tăng cường hội nhập quốc tế”.
Đặc biệt, đối với thị trường khí, mục tiêu được chỉ ra cụ thể là “Từng bước xây dựng khung pháp lý làm cơ sở để triển khai mô hình kinh doanh cạnh tranh đối với hoạt động kinh doanh khí CNG, LPG và LNG”.
Hiện nay, nhu cầu tiêu thụ khí hóa lỏng hàng năm ở Việt Nam vào khoảng 2-2,2 triệu tấn, song chủ yếu phục vụ nhu cầu dân dụng và thương mại.
Trên thực tế, sản lượng khai thác hàng năm đang suy giảm, trong khi nhu cầu sử dụng khí tăng cao và cùng đó là những khó khăn trong việc tìm kiếm, thăm dò, đáp ứng nhu cầu sử dụng điện cho kinh tế xã hội. Do vậy, kế hoạch trong tương lai sẽ phải duy trì ổn định nguồn cung cấp khí hiện có kèm theo nhập khẩu khí hóa lỏng LNG.
Theo ông Đặng Hải Anh - Trưởng phòng Vụ Dầu khí và Than (Bộ Công Thương), để làm được việc này, phải mở rộng các hoạt động tìm kiếm và thăm dò để cung cấp thêm trữ lượng và sản lượng khai thác ở các khu vực tiềm năng, sâu và xa bờ.
Đồng thời, phát triển công nghiệp khí đốt, ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ nhập khẩu và tiêu thụ hết khí thiên nhiên hóa lỏng. Cùng đó, đảm bảo khả năng nhập khẩu 8 tỷ m3 LNG vào năm 2030 và 15 tỷ m3 vào năm 2045.
Đánh giá của Vụ Kế hoạch (Bộ Công Thương) cho thấy, hệ thống kho chứa khí với 54 kho đầu mối và tuyến sau trải dài khắp 3 miền đất nước đã đảm bảo kênh phân phối khí hóa lỏng (LPG) hoạt động trơn tru, không bị đứt gãy nguồn cung khi xảy ra các sự cố cục bộ, khách quan.
Song hiện nay, khí LPG được sử dụng chủ yếu cho dân dụng, các ứng dụng từ sản phẩm LPG còn thấp. Do vậy, sản lượng tiêu thụ rất thấp, dẫn đến quy mô hệ thống kho cảng LPG chủ yếu là kho cảng nhỏ, năng lực nhập hàng hạn chế.
Với khí LNG, với công nghệ và thiết bị phức tạp, còn mới, ở Việt Nam chưa có nhiều kinh nghiệm xây dựng và vận hành. Tàu vận tải khí LNG thông thường có dung tích lớn, đòi hỏi phải có các cảng nước sâu để tiếp nhận tàu và đây là khó khăn khi xây dựng kho LNG tại Việt Nam.
Ngoài ra, việc xây dựng mới các tuyến ống dẫn khí từ kho LNG đến các khách hàng công nghiệp và dân dụng cũng gặp nhiều khó khăn về quy hoạch do thiếu đồng bộ khi các khu công nghiệp đước quy hoạch chưa tính đến dành hành lang tuyến cho ống dẫn khí đốt.
Các nguồn khí trong nước sẽ suy giảm dần
Sau gần 20 năm khai thác, từ năm 2018, các nguồn khí trong nước sẽ suy giảm dần, trong khi nguồn khí bổ sung từ các mỏ mới tại các khu vực có nguồn khí suy giảm không nhiều.
Ông Nguyễn Hoàng Giang - Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch cho biết, dự kiến, để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ sản phẩm khí trong nước, cơ sở hạ tầng tồn trữ của các kho chứa khí phải đạt quy mô từ 3,5-4 triệu tấn/năm vào năm 2025 và khoảng 4,5-5 triệu tấn/năm vào năm 2035 nhằm đảm bảo yêu cầu dự trữ tối thiểu đạt trên 15 ngày cung cấp.
“Trước hết, cần có định hướng mở rộng và xây mới kho chứa khí LPG từ lọc dầu để nhập khẩu đủ nhu cầu phát triển các nhà máy công nghiệp và các khách hàng. Cùng đó là xây mới và mở rộng kho khí LNG hiện có đáp ứng nhu cầu tiêu thụ cho các dự án điện khí, các khách hàng công nghiệp”, ông Giang cho hay.
Cũng theo ông Giang, nhìn chung, để xây dựng các định hướng phát triển hạ tầng dự trữ, cung ứng khí Việt Nam khả thi, có hiệu quả chịu ảnh hưởng bởi nhiều định hướng phát triển, quy hoạch ngành, lĩnh vực khác như: quy hoạch sử dụng đất, phòng cháy chữa cháy, bảo vệ môi trường, bảo tồn sinh thái, cảnh quan; khả năng thu hút huy động vốn của nhà đầu tư. Do vậy, cần có sự phối hợp, chung tay của nhiều bộ, ngành, địa phương, người dân và doanh nghiệp.
Hiện tại, thực hiện Quyết định số 503 ngày 10/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt nhiệm vụ lập Quy hoạch hạ tầng dự trữ, cung ứng xăng dầu, khí đốt quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050, Bộ Công Thương đang trong quá trình hoàn thiện để trình cấp có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt.
"Sau khi quy hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt sẽ xác định được mục tiêu, phương án phù hợp với tình hình thực tế", ông nói.
Việt Nam có nguồn tài nguyên dầu khí, cơ sở hạ tầng công nghiệp khí đã được xây dựng tương đối đồng bộ. Chính phủ cũng luôn quan tâm đầu tư và phát triển ngành công nghiệp khí, cùng đó là những chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tham gia vào thị trường khí…
Tuy nhiên, ông Nguyễn Văn Vy – Phó Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam cho rằng, hiện công nghệ cho tìm kiếm khai thác vẫn phức tạp, đòi hỏi vốn đầu tư lớn, đặc biệt sự biến động của thị trường dầu khí thế giới, chịu ảnh hưởng lớn bởi các yếu tố chính trị. Cùng đó là xu hướng chuyển dịch năng lượng toàn cầu.
“Do vậy, để phát triển thị trường khí, cần thúc đẩy sớm công tác đầu tư các dự án khai thác mỏ, cơ sở hạ tầng khí, nhập khẩu khí, điện khí, tái hóa khí hóa lỏng LNG để đảm bảo đáp ứng nhu cầu trong nước”, ông Vy nhìn nhận.