Đây có lẽ là cuộc họp “đặc biệt” nhất vì kéo dài 7 tiếng với sự tham gia phát biểu ý kiến của tất cả Ban lãnh đạo, các Vụ cục liên quan của NHNN và các TCTD để NHNN tiếp thu ý kiến trong việc điều hành tín dụng hiện nay và năm 2023. Các ý kiến phát biểu trên nguyên tắc công khai, minh bạch, thẳng thắn nhằm hướng tới mục tiêu điều hành tín dụng hiệu quả, phù hợp góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng và đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng trước bối cảnh lạm phát, lãi suất trên thế giới tăng cao và tình hình địa chính trị trên thế giới dự báo còn diễn biến phức tạp tác động đến kinh tế toàn cầu.
Ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát là mục tiêu căn cơ, lâu dài
Phát biểu khai mạc Hội nghị, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng đánh giá, nền kinh tế thế giới thời gian vừa qua có nhiều biến động khó lường ảnh hưởng lớn đến kinh tế trong nước. Nền kinh tế Việt Nam có độ mở cửa lớn, sản xuất phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu nhập khẩu trong khi giá cả thế giới tăng cao và có thể tiếp tục tăng nếu như diễn biến lạm phát thế giới chưa kiểm soát được. Bên cạnh đó, theo đánh giá của quốc tế, kỳ vọng lạm phát đối với Việt Nam là tương đối lớn. Với nhiệm vụ điều hành chính sách tiền tệ (CSTT), góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế, NHNN không thể chủ quan với diễn biến của lạm phát; và không thể chỉ kiểm soát lạm phát năm nay mà còn các năm sau. Đó là mục tiêu kiên định trong dài hạn.
Nghị quyết 43 của Quốc hội và Nghị quyết 11 của Chính phủ đã giao nhiệm vụ cho ngành Ngân hàng điều hành ổn định lãi suất và phấn đấu giảm lãi suất 0,5 - 1% trong 2 năm triển khai chương trình phục hồi. Đây là nhiệm vụ khó khăn trong bối cảnh các nước trên thế giới thắt chặt CSTT. Trong nước, chỉ 8 tháng đầu năm, tín dụng toàn hệ thống đã tăng gần 10% - là mức cao so với nhiều năm trước đây.
Cùng với đó, NHNN và hệ thống ngân hàng đang phải thực hiện tái cơ cấu hệ thống trong giai đoạn thứ 3. Nhiệm vụ quan trọng là đảm bảo ổn định an toàn hoạt động hệ thống ngân hàng và triển khai các giải pháp theo Nghị quyết 43 của Quốc hội thông qua gói hỗ trợ lãi suất 2% với quy mô 40.000 tỷ từ nguồn ngân sách nhà nước để hỗ trợ nền kinh tế.
Hiện nay, việc điều hành tín dụng của NHNN đang được sự quan tâm lớn của dư luận, doanh nghiệp, các TCTD, chuyên gia, báo chí... Vấn đề đặt ra đối với NHNN là phải giải bài toán tổng thể, bởi chính sách điều hành hôm nay không chỉ ngắn hạn mà cần phải căn cơ, dài hạn, bài bản, vừa góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát vừa đảm bảo an toàn hệ thống, hỗ trợ tăng trưởng, ổn định tỷ giá, lãi suất…
Theo ông Phạm Chí Quang – Phó Vụ trưởng phụ trách Vụ Chính sách tiền tệ, trước 2021 do đặc thù kinh tế Việt Nam, các nhu cầu vốn phụ thuộc chủ yếu vào tín dụng ngân hàng, kênh tín dụng là kênh cung cấp vốn chủ yếu cho nền kinh tế, có tốc độ tăng rất nhanh. Giai đoạn 2007 - 2010, tín dụng tăng bình quân trên 36%, tỷ lệ tín dụng/GDP cũng tăng rất nhanh, kéo theo các cuộc đua lãi suất, dẫn đến lãi suất cho vay tăng nhanh, nợ xấu hệ thống ngân hàng tăng cao. Nhiều TCTD mất khả năng thanh toán, hệ thống đứng trước bờ vực khủng hoảng, gây bất ổn kinh tế vĩ mô, lạm phát lên mức 2 con số, đỉnh điểm là vào năm 2008. Các tổ chức quốc tế IMF, WB, Moody’s… cảnh báo nới lỏng tín dụng giai đoạn này đã gia tăng nguy cơ rủi ro trọng yếu đối với nền kinh tế, đe dọa an toàn hệ thống, mất khả năng kiểm soát, nợ xấu... Ngoài ra kinh tế Việt Nam có độ mở lớn, nên tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã tác động kéo dài ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế, đặc biệt là hoạt động ngân hàng.
Trước bối cảnh đó, từ năm 2011, kết hợp với việc siết chặt hoạt động thanh tra giám sát theo các tiêu chí an toàn theo chuẩn mực quốc tế, NHNN đã tiến hành giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng (TTTD) cho từng TCTD căn cứ vào năng lực tài chính, quản trị, điều hành của từng TCTD. Đồng thời NHNN thường xuyên nghiên cứu, điều chỉnh, cập nhật để đảm bảo biện pháp điều hành TTTD bám sát tình hình thực tiễn, nhằm đạt mục tiêu hàng năm do chính phủ, NHNN đặt ra trong kiểm soát lạm phát, đảm bảo an toàn hệ thống và ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối.
Các tiêu chí chính sách phân bổ chỉ tiêu TTTD được NHNN công bố công khai ngay từ đầu năm tại Chỉ thị 01 của Thống đốc và đều được kiểm toán NHNN, kiểm toán nhà nước tiến hành kiểm toán, đánh giá thể hiện rõ nguyên tắc công khai, minh bạch. Tổng kết quá trình triển khai biện pháp phân bổ TTTD từ 2011 đến nay, TTTD toàn hệ thống giảm mạnh từ 30% /năm (cá biệt có năm lên tới 53,8%) xuống chỉ còn 12 – 14% những năm gần đây. Sự ổn định của thị trường tiền tệ đã góp phần kiểm soát lạm phát, góp phần thúc đẩy các TCTD nâng cao năng lực quản trị điều hành, cải thiện các chỉ số an toàn hoạt động và giảm mặt bằng lãi suất thị trường.
Từ 2020 đến nay, kinh tế Việt Nam liên tục trải qua nhiều biến động lớn, ảnh hưởng trọng yếu đến hoạt động ngân hàng, áp lực lạm phát tăng cao, khiến hầu hết NHTW trên thế giới đẩy nhanh tiến trình thắt chặt CSTT, tăng mạnh lãi suất, gây thách thức rất lớn cho công tác điều hành CSTT và tín dụng của NHNN.
Tại Hội nghị về giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng và đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế ngày 12/9 vừa qua do Thủ tướng Phạm Minh Chính và Phó Thủ tướng Lê Minh Khái chủ trì, các tổ chức tài chính quốc tế (IMF, WB, ADB,..) đều đánh giá cao điều hành của NHNN trong kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Theo đó IMF khuyến nghị nếu TTTD để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế sẽ đi ngược lại các công cụ, giải pháp CSTT để kiềm chế lạm phát đã được NHNN thực hiện thời gian vừa qua.
Trong bối cảnh đó, tín dụng ngân hàng chỉ là một trong các giải pháp điều hành mà NHNN phải điều hành đồng bộ, linh hoạt hài hòa với các công cụ khác để đảm bảo mục tiêu lớn nhất là ổn định hệ thống kiểm soát lạm phát, ổn định vĩ mô.
Về tình hình triển khai công tác tín dụng năm 2022, Bà Hà Thu Giang – Phó Vụ trưởng phụ trách Vụ Tín dụng các ngành kinh tế cho biết, trong 8 tháng đầu năm, NHNN đã chỉ đạo hướng dòng vốn vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên, hỗ trợ phục hồi kinh tế, xã hội. Nhờ vậy, tín dụng các ngành đều tăng ngay từ đầu năm 2022 và tăng cao hơn so với cùng kỳ 2021, 2020. Trong thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục tập trung tín dụng vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, cho vay phục vụ nhu cầu đời sống... với mức lãi suất hợp lý đảm bảo an toàn vốn vay, hỗ trợ phục hồi phát triển kinh tế xã hội; tiếp tục kiểm soát chặt chẽ rủi ro tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro nhằm đảm bảo an toàn hệ thống theo các quyết định của NHNN; cân đối nguồn vốn để cho vay các dự án sản xuất kinh doanh hiệu quả, nhất là các ngành lĩnh vực được hỗ trợ lãi suất theo quy định tại Nghị định 31; tiếp tục thực hiện có hiệu quả các giải pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho khách hàng theo chỉ đạo của NHNN, các chương trình chính sách tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ,…
Phát biểu tại Hội nghị, ông Nguyễn Văn Du – Quyền Chánh Thanh tra, giám sát Ngân hàng đánh giá, hầu hết các ngành có TTTD cao cũng đều là những ngành có tăng trưởng tốt. Tuy nhiên một số ngành tăng trưởng thấp nhưng dư nợ tín dụng tiếp tục tăng cao như bất động sản, tiêu dùng,… Chủ trương điều hành tín dụng của NHNN không cấm tín dụng vào bất động sản,… nhưng cần phải cẩn trọng và có cơ cấu danh mục đầu tư tín dụng hợp lý để hạn chế rủi ro, đặc biệt trong điều kiện áp lực tín dụng rất lớn.
Điều hành tín dụng của NHNN là phù hợp và nhất quán
Tại hội nghị đa số các TCTD đánh giá việc điều hành tín dụng của NHNN trong thời gian qua là phù hợp. Các ý kiến đều cho rằng chúng ta chưa thể bỏ công cụ hạn mức tín dụng. Tỷ lệ TTTD 14% năm 2022 là phù hợp trong bối cảnh phục hồi kinh tế sau dịch và đã tăng cao hơn so với năm trước. Đồng thời, cần có tỷ lệ phân bổ theo chất lượng hoạt động của các TCTD tránh việc phân bổ cào bằng; và việc thông tin riêng đến từng TCTD là cần thiết vì phân bổ theo xếp loại không thể công khai ra công chúng ảnh hưởng đến sự cạnh tranh giữa các TCTD. Các ý kiến cũng cho rằng nếu tỷ lệ TTTD cao sẽ dẫn đến nguy cơ chạy đua lãi suất giữa các TCTD và an toàn hệ thống. Cũng tại Hội nghị, đa số lãnh đạo các TCTD như: Vietcombank, Vietinbank, BIDV, Agribank, Sacombank, SHB, MB,… đều đồng tình với đánh giá, nhận định của NHNN về tình hình kinh tế vĩ mô và các giải pháp chỉ đạo, điều hành của NHNN thời gian qua. Nền kinh tế trong nước đang chịu nhiều áp lực do tác động lan tỏa của biến động kinh tế toàn cầu. Chúng ta phải đảm bảo kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn một cách hợp lý nhất để vừa kiểm soát lạm phát, vừa đảm bảo phục hồi và tăng trưởng. NHNN phải đối mặt với nhiều áp lực lớn, do đó việc kiểm soát TTTD để tránh ảnh hưởng đến lạm phát là điều tất yếu. Đồng thời các ý kiến cũng kiến nghị Chính phủ cần có giải pháp hiệu quả phát triển và thu hút vốn trung và dài hạn từ các kênh khác như trái phiếu, chứng khoán và thu hút đầu tư nước ngoài… Nền kinh tế không nên quá phụ thuộc vào vốn tín dụng với bản chất kinh tế chủ yếu phục vụ vốn ngắn hạn và lưu động… Hiện nay, xã hội đang có xu hướng tập trung quá nhiều vào tín dụng ngân hàng thậm chí kể cả vốn trung và dài hạn, điều đó tạo áp lực lên hệ thống ngân hàng và lâu dài ảnh hưởng đến an toàn hệ thống ngân hàng và nền kinh tế.
Phát biểu tại Hội nghị, bà Lê Thị Thúy Sen – Vụ trưởng Vụ Truyền thông cho biết, qua thu thập, phân tích thông tin dư luận từ báo chí, các chuyên gia kinh tế, vấn đề hạn mức tín dụng là đề tài nóng được cộng đồng doanh nghiệp, báo chí quan tâm trong suốt mấy tháng qua. Phần lớn dư luận đều đánh giá cao công tác điều hành tín dụng của NHNN, tuy nhiên có một số ý kiến cho rằng, việc chậm nới room tín dụng thì sẽ lỡ mất thời cơ tăng trưởng, hay nên bỏ hạn mức tín dụng vì công cụ này đã lạc hậu, là biện pháp hành chính và không còn ý nghĩa? Hạn mức tín dụng không có mối liên hệ với lạm phát, không tác động đến lạm phát; việc phân bổ hạn mức tín dụng chưa đảm bảo khách quan, tạo cơ chế xin cho…Việc kiểm soát tín dụng sẽ kìm hãm sự phục hồi kinh tế…
Tuy nhiên các tổ chức quốc tế khuyến cáo Việt Nam, NHNN phải kiểm soát hạn mức tín dụng. Gần đây WB, IMF, hay các tổ chức xếp hạng tín nhiệm toàn cầu đều cảnh báo về tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam và tỷ lệ tổng tài sản của ngân hàng trong nước/GDP đang ở mức cao. Mới đây Moody’s đã nâng mức tín nhiệm quốc gia của Việt Nam từ mức Ba3 lên mức Ba2, nhưng tiếp tục cảnh báo về các tỷ lệ này, là một trong những tỷ lệ cao nhất trong số quốc gia xếp hạng Ba và Baa. Chưa kể áp lực ngắn hạn đối với tỷ giá, lãi suất, vấn đề tăng vốn của các ngân hàng không theo kịp quy mô tăng tín dụng… cũng các tổ chức quốc tế (IMF, WB, Fitch Ratings, S&P) cảnh báo.
Nhiều chuyên gia đánh giá cao sự điều hành CSTT của NHNN trong thời gian qua trong việc góp phần kiềm chế lạm phát và phục hồi kinh tế sau dịch. Đa số ý kiến của chuyên gia cũng cho rằng cần kiểm soát hạn mức tín dụng và khuyến cáo NHNN kiên định mục tiêu TTTD ở mức 14%. Các chuyên gia cũng chia sẻ với NHNN trong việc phải điều hành CSTT đa mục tiêu, trong đó các mục tiêu mâu thuẫn đan xen lẫn nhau, như giảm lãi suất nhưng lại giữ ổn định tỷ giá, hay kiềm chế lạm phát nhưng vẫn đảm bảo tăng trưởng trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn và ngành ngân hàng đang phải thực hiện đồng thời việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng… NHNN phải rất khéo léo, linh hoạt, thận trọng để đảm bảo hài hòa trong điều hành giữa các thành tố của thị trường tiền tệ để đạt mục tiêu góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng và an toàn hệ thống ngân hàng.
Các chuyên gia cũng đánh giá việc xếp hạng theo Thông tư 52 là minh bạch, công bằng, khách quan, đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các TCTD và an toàn hệ thống cũng như kiểm soát lạm phát, bảo vệ được tăng trưởng, đồng thời đảm bảo được hài hòa giữa các mục tiêu mà đôi khi các mục tiêu đan xen lẫn nhau, chúng ta phải sử dụng các biện pháp mà đôi khi không phải là biện pháp hành chính nhưng đang phát huy hiệu quả và thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh giữa các TCTD.
Bên cạnh đó, liên quan đến tiếp cận vốn của doanh nghiệp, có ý kiến cho rằng doanh nghiệp không tiếp cận được vốn, giải ngân chậm do hạn mức tín dụng. Tuy nhiên nhiều quan điểm cho rằng việc không tiếp cận được vốn có nguyên nhân do họ không đáp ứng được yêu cầu chuẩn mực của TCTD. Việc này các TCTD cần phải giải thích rõ cho khách hàng nguyên nhân không tiếp cận được vốn mà không nên “đổ lỗi” hết cho hạn mức tín dụng.
Bà Sen cho rằng cần có sự thống nhất, đồng thuận, chia sẻ và thấu hiểu để cùng nhau làm cho dư luận hiểu thêm về việc điều hành chính sách của ngành ngân hàng đang phải chịu rất nhiều sức ép đặc biệt từ bối cảnh thế giới. Trong nước, việc huy động vốn từ các kênh khác đang gặp khó khăn nên “đổ dồn” áp lực lên tín dụng ngân hàng.
Đại diện Lãnh đạo các TCTD tham dự Hội nghị
Ông Phạm Quang Dũng- Chủ tịch HĐQT Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) cho rằng chỉ tiêu TTTD là một tham số kinh tế vĩ mô rất quan trọng, các NHTW trên thế giới đều kiểm soát chỉ tiêu này trực tiếp hoặc gián tiếp. Tại Việt Nam từ 2011 đến nay, NHNN đã thực hiện phân bổ chỉ tiêu tín dụng, biện pháp này đã góp vai trò quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định vĩ mô,… Theo Vietcombank, TTTD hàng năm đã được tính toán và xác định dựa trên các mô hình kinh tế lượng, căn cứ mục tiêu lạm phát, diễn biến kinh tế vĩ mô, tổng quy mô TTTD được xử lý khoa học. Tiêu chí phân bổ cho các ngân hàng càng ngày càng được làm chặt chẽ hơn theo Thông tư 52.
Trong năm 2022, để kịp thời thông báo chỉ tiêu TTTD cho các TCTD, NHNN đã căn cứ các kết quả xếp hạng năm 2020 của từng TCTD theo Thông tư 52. Đây là kết quả xếp hạng mới nhất tại thời điểm phân bổ đầu năm. Đồng thời NHNN đã áp dụng một số chỉ tiêu để cụ thể hóa chủ trương chỉ đạo của chính phủ và điều hành của NHNN làm cơ sở điều chỉnh tăng hoặc giảm chỉ tiêu TTTD đối với từng TCTD trong quá trình phân bổ như tiêu chí các TCTD tham gia xử lý các TCTD yếu kém, …
Do đó, ngay sau khi có kết quả xếp hạng mới nhất của các TCTD theo thông tư 52, NHNN đã cập nhật chỉ tiêu TTTD năm 2022 của các TCTD theo kết quả xếp hạng chính thức năm 2021. Đồng thời nắm bắt nhu cầu TTTD căn cứ diễn biến thị trường.
Theo bà Ngô Thu Hà – Quyền Tổng Giám đốc NHTMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB), trong bối cảnh vĩ mô của năm 2021 – 2022, việc điều hành CSTT, chính sách tín dụng của NHNN đã góp phần hỗ trợ phục hồi kinh tế, tạo thuận lợi cho các ngân hàng triển khai hoạt động kinh doanh. Liên quan đến chỉ tiêu TTTD, NHNN đã có điều chỉnh kịp thời, phù hợp với hoạt động của các ngân hàng cũng như diễn biến của thị trường. Cơ bản ngân hàng đồng thuận với định hướng và các chỉ tiêu phân bổ.
Cùng chung quan điểm, ông Lưu Trung Thái – Tổng Giám đốc NHTMCP Quân đội (MB) cho rằng, thực tế nhiều năm qua đã chứng minh phương pháp điều hành tín dụng của NHNN và phân bổ chỉ tiêu TTTD hàng năm cho từng TCTD đã phát huy hiệu quả trong việc kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Việc thông báo chỉ tiêu TTTD ngay từ đầu năm cũng giúp các TCTD chủ động trong hoạt động kinh doanh của mình. Theo ông Thái, nhu cầu vốn của nền kinh tế hiện nay là rất lớn, tuy nhiên cũng không thể dồn hết vào hệ thống ngân hàng mà cần phải phát triển qua nhiều kênh khác.
Tổng Giám đốc MB Bank cũng đánh giá các tiêu chí phân bổ chỉ tiêu TTTD cũng được NHNN thực hiện công khai, minh bạch căn cứ kết quả đánh giá xếp hạng theo Thông tư 52 cùng với các tiêu chí khác. Các tiêu chí của Thông tư 52 đã phản ánh các tiêu chuẩn chung của thế giới đồng thời có các tiêu chuẩn đánh giá của NHNN. Cách tiếp cận theo xếp hạng như vậy là phù hợp với thực tế.
Ông Hàn Ngọc Vũ, Tổng Giám đốc NHTMCP Quốc tế (VIB) đồng tình với các định hướng điều hành CSTT, tín dụng được Thống đốc NHNN đề ra tại Chỉ thị 01 ngay từ đầu năm. Trong bối cảnh thế giới và trong nước hiện nay, mức TTTD quanh 14% cho năm 2021 là phù hợp, đã góp phần hỗ trợ phục hồi kinh tế, và phù hợp với các định hướng tín dụng của NHNN. Cũng theo ông Vũ, việc áp dụng chỉ tiêu hạn mức tín dụng cho tiêu chí tham gia xử lý các TCTD yếu kém là hợp lý, tạo điều kiện hỗ trợ cho các ngân hàng có thêm nguồn lực.
Đồng thuận vì mục tiêu chung góp phần kiềm chế lạm phát, phục hồi kinh tế và an toàn hệ thống
Tại Hội nghị, Ban Lãnh đạo NHNN, lãnh đạo các đơn vị chức năng của NHNN đã có những trao đổi thẳng thắn, trực tiếp với đại diện các TCTD về các nội dung liên qua đến công tác điều hành CSTT, tín dụng, các tiêu chí phân bổ chỉ tiêu tín dụng. Hầu hết đại diện các ngân hàng cũng cho rằng việc duy trì xếp hạng theo Thông tư 52 để làm căn cứ phân bổ chỉ tiêu tín dụng cho từng TCTD là cần thiết. Tuy nhiên, các ngân hàng đề xuất NHNN xem xét các tiêu chí như TCTD lành mạnh, đáp ứng tiêu chí về an toàn, khuyến khích ở mức độ nhất định với các TCTD tuân thủ các chuẩn mực quốc tế mới như Basel III, mức độ chuyển đổi số,…
Nhấn mạnh các áp lực lạm phát, Phó Thống đốc Phạm Thanh Hà cho biết, đây là vấn đề chúng ta cần hết sức lưu tâm, các tổ chức quốc tế đã tiếp tục có những cảnh báo về lạm phát. Thực tế trong 2 năm vừa qua, nhiều nước đã nới lỏng tiền tệ và tài khóa để hỗ trợ phục hồi kinh tế sau dịch. Nhiều NHTW chủ quan với lạm phát đã khiến cho lạm phát và kỳ vọng lạm phát tăng cao. NHTW các nước sau đó đã phải tăng nhanh và mạnh lãi suất để chống lạm phát. Thực tế đó khiến chúng ta không thể chủ quan, nhất là với nền kinh tế có độ mở lớn như Việt Nam,…
Liên quan đến điều hành tín dụng và công cụ hạn mức tín dụng, Phó Thống đốc Đào Minh Tú cho rằng tại Hội nghị, các TCTD đều đồng tình với quan điểm điều hành vĩ mô nói chung và CSTT, chính sách tín dụng của NHNN đang chịu sức ép lớn, trong bối cảnh nền kinh tế trong nước đang phục hồi, nhu cầu vốn lớn trong khi thế giới có nhiều diễn biến thế giới phức tạp. Các ý kiến cũng đánh giá mặc dù còn có những hạn chế, nhưng công cụ hạn mức tín dụng vẫn cần thiết và phát huy hiệu quả. Việc phân bổ hạn mức tín dụng cho các TCTD được thực hiện đảm bảo nguyên tắc khách quan, rõ ràng, minh bạch, để đảm bảo an toàn hệ thống, vì mục tiêu chung của ngành, của đất nước.
Kết luận Hội nghị, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho rằng các ý kiến của các TCTD, các đơn vị chức năng của NHNN, thông qua trao đổi hai chiều tại Hội nghị, đã có sự đồng thuận trong đánh giá về bối cảnh kinh tế có nhiều khó khăn, hệ thống ngân hàng chịu nhiều áp lực. Các ý kiến tại Hội nghị đều đánh giá công cụ kiểm soát tín dụng là một công cụ hữu ích, phù hợp với điều kiện Việt Nam và đã đóng góp tích cực đem lại ổn định cho nền kinh tế nói chung và ổn định hệ thống ngân hàng nói riêng, trong đó, các TCTD được hưởng lợi. Mặc dù chưa thể đáp ứng được tất cả mọi yêu cầu, kiến nghị của các TCTD nhưng tất cả các ý kiến đều nhất trí, đồng thuận để cùng hướng đến mục tiêu chung vì đất nước, vì ngành ngân hàng và từng thành viên trong hệ thống tín dụng.
Đối với các tiêu chí xác định TTTD hàng năm, ý kiến của các TCTD đều đồng thuận phải căn cứ vào xếp hạng theo Thông tư 52. Đây là tiêu chí khoa học và cơ bản nhất. Bên cạnh đó, đề xuất về các nội dung ưu tiên xem xét khuôn khổ tín dụng 2023, đa số ý kiến cho rằng, tín dụng chỉ là một trong số các kênh vốn và không thể đáp ứng hết tất cả các nhu cầu vốn của nền kinh tế. Đó cũng là điều mà không có quốc gia nào có thể thực hiện được. Về lâu dài, đại diện các TCTD đều đề xuất cần kiến nghị phát triển các kênh đầu tư khác như chứng khoán, trái phiếu, đầu tư công, thu hút vốn nước ngoài….
Thống đốc cũng yêu cầu các TCTD cần tập trung truyền thông, đây là công việc của cả ngành và Vụ Truyền thông (NHNN) chịu trách nhiệm đầu mối để dư luận hiểu về việc điều hành CSTT nói chung điều hành tín dụng nói riêng. Các TCTD cũng cần chú ý giải thích để người dân và doanh nghiệp hiểu.
Đối với các kiến nghị về tiêu chí xem xét phân bổ chỉ tiêu tín dụng, cách thức phân bổ,… Thống đốc yêu cầu các đơn vị chức năng của NHNN tổng hợp, nghiên cứu, phân tích, đánh giá kỹ lưỡng về tính khả thi,… để hoàn thiện công cụ hạn mức tín dụng và điều hành TTTD năm 2023.
CTT
Xem thêm: 902125VBS=emaNcoDd?001mc/sknil/iv/latrop/retnecbew/nv.vog.vbs.www