"Họ là nhóm lao động tương đối trẻ, dưới 40 tuổi, có áp lực tài chính hoặc gánh nặng về gia đình như có con nhỏ, hoặc độc thân nhưng có cha mẹ già ở quê. Họ sẽ ưu tiên về quê đợt này", bà nhận xét. Những người này, theo bà đã kiệt quệ cả về tâm lý, sức khoẻ và kinh tế trong thời gian giãn cách.
Covid-19 đã biến các tỉnh miền Nam, nơi vốn được xem là thuận lợi cho việc mưu sinh, trở nên khắc nghiệt và tù túng, càng thôi thúc người lao động đang khó khăn muốn "về quê" hơn.
Khảo sát của Social Life trong tháng 6-7 tại Bình Dương, TP HCM với quy mô 457 người cho thấy khoảng 30% người bị mất việc hoặc nợ lương, chậm lương. Tổ chức này cũng dẫn lại một ước tính dựa trên số liệu của Tổng cục Thống kê từ năm 2017 cho thấy, trong điều kiện bình thường không có dịch bệnh, trung bình hộ nghèo chỉ tiết kiệm khoảng 7 triệu mỗi năm, chỉ "ăn nhắt hà tiện" được nhiều nhất trong 2-3 tháng.
Trong khi đó, khảo sát trực tuyến trên VnExpress thực hiện cùng Ban IV hồi tháng 8 với hơn 69.000 người lao động, đa phần đến từ khu vực phía Nam cho thấy, 62% người đã mất việc vì dịch bệnh. Nguồn tài chính tích luỹ không dư dả khiến 50% lao động mất việc chỉ đủ tiền trang trải cuộc sống trong 1 tháng. 37% và 8,6% người cho biết đủ tiền sống trong 3-6 tháng, chỉ 4,4% người dư tiền tích luỹ trên 6 tháng.
Páo là một trong số ấy. Páo kể, trong những ngày ở lại Bình Dương, vợ chồng có khăn gói vào công ty thực hiện "ba tại chỗ". Tuy nhiên, thời gian cũng chỉ được gần chục ngày. Nhà máy có ca nhiễm, họ phải trở về phòng tự cách ly. Những căn phòng trọ vốn chỉ để "ngủ vài tiếng mỗi ngày" trở thành nơi ở 24/24. Không ai dám ra khỏi ngõ, ở đâu cũng chỉ thấy F0.
Hơn hai tháng, họ nhận được 800.000 đồng mỗi người hỗ trợ từ nhà nước. Số tiền đủ để đóng trọ, tiền nước một tháng. Phòng trọ sát lề đường, thi thoảng Páo nhận được vài cân gạo, thùng mì từ nhà hảo tâm. "Họ cho gì mình ăn cái nấy, không đòi hỏi", Páo nói.
Nhưng lúc này, tâm tư của vợ chồng chỉ thèm về nhà. Về quê dù không có tiền, không chết đói được. "Rau ăn rau, muối ăn muối, cả nhà không bệnh là hạnh phúc", anh nói.
Dòng người đổ về quê đã khiến cho không ít doanh nghiệp lo ngại về tình trạng thiếu hụt lao động. Ông Trương Văn Cẩm, Phó chủ tịch Hiệp hội dệt may bày tỏ: "Có không ít người bỏ về quê là công nhân dệt may, da giày. Một lần nữa chuỗi cung ứng hai ngành này đứng trước nguy cơ đứt gãy", ông nói.
Khảo sát một số nhà trọ ở tại Bình Dương, ông Nguyễn Duy Minh - Tổng Thư ký Hiệp hội Logistics Việt Nam (VLA) nhận thấy, số lao động đổ xô về quê, trước hết thường rơi vào nhóm nhân công của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, dịch vụ mô nhỏ, lẻ.
"Những người làm cho nhà máy, khu công nghiệp lớn được bảo vệ bằng hợp đồng lao động nên phần đông vẫn ở lại", ông nói. Theo đó, tại các doanh nghiệp có năng lực lãnh đạo tốt, họ đã chăm sóc cả công nhân tham gia "ba tại chỗ" và "công nhân tạm nghỉ ở nhà". "Tuy nhiên, những nhà máy được tổ chức tốt như vậy theo tôi nghĩ không có nhiều", ông nói.
Lĩnh vực dịch vụ cũng đang đứng trước bài toán thiếu lao động. Một chủ nhà hàng lớn tại TP HCM bày tỏ lo ngại khi cấu trúc lao động của hệ thống nhà hàng đang mất đi khi người lao động bỏ về quê.
"Nếu tìm vài người bưng bê, chạy bàn thì còn dễ, đâu cũng kiếm được, nhưng những người có tay nghề cao như đầu bếp, phụ bếp thì khó. Nhiều người giờ quyết định ở lại quê luôn không ra vì sợ dịch", người này chia sẻ. Điều này khiến cho việc tái hoạt động của doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn.
Ông Nhạc Phan Linh, Viện Công nhân Công đoàn (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) cho biết, khi tiếp xúc trực tiếp với những "lao động di cư" từ Nam ra Bắc vừa qua, nhiều người lao động tâm sự họ tự chủ động bỏ việc vì sợ bị lây bệnh khi cho rằng mô hình sản xuất "3 tại chỗ" áp lực lớn, nguy cơ nhiễm bệnh cao. Với Nhóm lao động có gia đình khi di cư về quê, họ cho biết không muốn trở lại miền Nam làm việc. Họ trở về quê tìm việc để ổn định cuộc sống, tiện chăm sóc gia đình, con cái.
Tuy nhiên, làn sóng hàng vạn người lao động nhập cư về quê lần này, theo giới phân tích, vẫn có những điểm tích cực.
Bà Đỗ Quỳnh Chi nhìn nhận đợt về quê này của người lao động là một cuộc nghỉ ngơi sau quãng thời gian họ quá mệt mỏi ở thành phố. Kết quả khảo sát của bà cũng cho thấy, 89% người lao động di cư và 96% người lao động địa phương muốn quay lại công việc và công ty cũ. Nếu không có sự hỗ trợ tích cực nào để trở lại, người lao động cho biết họ sẽ cần 3-5 tháng để hồi phục trước khi trở lại thành phố làm việc.
Ông Lộc cũng nhìn nhận việc cho người lao động về quê giống như xả van cho nồi áp suất đang căng. Ông đánh giá, những người lao động di cư có thể không phải tự phát mà đã tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng khi đưa ra quyết định ở hay về. "Họ có những nhóm Zalo, Facebook để trao đổi thông tin với nhau", ông nói. Nhiều nghiên cứu trước đó cũng chỉ ra, người di cư có tính cộng đồng, vùng miền rất lớn, họ cũng có xu hướng tụ tập, chọn nơi làm việc và sinh sống cùng với những người đồng hương.
"Ghi nhận của chúng tôi hồi tháng 6-7 cho thấy, hơn 90% người lao động di cư cho biết sẽ quay lại để làm việc, cho thấy mức độ gắn bó của họ với các thành phố rất cao", ông chia sẻ. Theo ông, TP HCM, Bình Dương với người lao động đã trở thành "một chốn hai quê".
Do vậy, việc các địa phương chủ động trong việc hỗ trợ người lao động di cư hồi hương có thể giúp họ phục hồi, có nhiều năng lượng hơn khi hoạt động sản xuất trở lại công suất ban đầu, đồng thời, cũng giảm tải áp lực cho thành phố trong sắp xếp lại các không gian cư trú, chính sách phúc lợi.
Xem thêm: lmth.3590734-gnod-oal-nav-gnah-auc-cus-ioh-uc-id-couc/ten.sserpxenv