Tăng 2,4 lần sau 5 năm
Tại Hội thảo “Phát hành trái phiếu doanh nghiệp: Niềm tin và giải pháp” do Tạp chí Tài chính Doanh nghiệp tổ chức ngày 30/11, tiến sĩ Trịnh Đoàn Tuấn Linh - chuyên gia tài chính ngân hàng cho biết, theo thống kê trong giai đoạn 2016-2020, trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) Việt Nam đã tăng từ mức 4.300 tỷ đồng lên mức 10.300 tỷ đồng (tăng 2,4 lần).
Mặc dù giá trị phát hành TPDN Việt Nam đã tăng mạnh trong giai đoạn 2018 - 2021, tuy nhiên thị trường TPDN Việt Nam vẫn được xem là giai đoạn mới phát triển. Trong năm 2020, tỉ lệ đóng góp vào GDP của TPDN tại Việt Nam mới đạt 15,1%. Con số này thấp hơn nhiều nước ASEAN như Thái Lan (22,7%), Singapore (36,5%) và Malaysia (54,3%).
Trong 10 tháng đầu năm 2022, doanh nghiệp Việt Nam đã phát hành 234.000 tỷ đồng trái phiếu. Trong đó, chỉ có 9.600 tỷ đồng là được phát hành qua kênh đại chúng, chủ yếu là phát hành riêng lẻ.
Do đó, tiềm năng phát triển của thị trường TPDN vẫn còn rất lớn, đặc biệt sau khi cơ quan quản lý nhà nước đã có những quy định sửa đổi với mục tiêu bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư cũng như nâng cao chất lượng của thị trường vốn.
Theo tiến sĩ Đinh Thế Hiển, quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp năm 2020 tương đương 15,1% GDP và 10,3% dư nợ tín dụng. Điều này cho thấy kênh huy động vốn qua trái phiếu, một trong các cấu phần của thị trường vốn cùng với kênh tín dụng và kênh cổ phiếu đã đóng vai trò quan trọng trong việc khai thông nguồn vốn cho sự phát triển của doanh nghiệp Việt Nam.
Cũng theo tiến sĩ Hiển, khi tìm hiểu để đầu tư TPDN, một trong những dấu hiệu để nhận định TPDN có an toàn hay không là lãi suất cao không quá 30% so với lãi suất cho vay ngân hàng.
Những công ty phát hành là công ty cổ phần đại chúng niêm yết hoặc được tổ chức xếp hạng uy tín theo đánh giá AAA.
“Xu hướng chung của thị trường chứng khoán quốc tế là nhà đầu tư thông qua những quỹ mở với đội ngũ chuyên nghiệp. Các đơn vị này sẽ đầu tư những trái phiếu tốt, có độ an toàn cao, giúp nhà đầu tư linh hoạt trong thoái vốn. Nhìn chung để đầu tư TPDN một cách an toàn trong giai đoạn này, nhà đầu tư nên chọn mua trái phiếu của các công ty có tên tuổi, uy tín và được xếp hạng tín nhiệm rõ ràng”, tiến sĩ Hiển nhấn mạnh.
Giải pháp nào “cứu” thị trường trái phiếu doanh nghiệp?
Nhận định tiềm năng phát triển của thị trường TPDN vẫn còn rất lớn, tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân nên nhà đầu tư vẫn có thể gặp nhiều rủi ro. Đề cập về nguyên nhân, luật sư Phạm Ngọc Hưng - Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Tp.HCM (HUBA) cho hay, trên thực tế rất nhiều nhà đầu tư chưa thật sự am hiểu về TPDN, dễ bị tác động bởi các tin đồn thổi, tin hành lang và tiến hành đầu tư dẫn đến rủi ro.
Trong khi đó, một phần quan trọng khiến nhà đầu tư mất niềm tin vào TPDN là do những công ty phát hành công bố thông tin sai sự thật, thông tin giả, chất lượng tài sản đảm bảo của trái phiếu hạn chế, không có tài sản đảm bảo.
Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp không có phương án phát hành trái phiếu được phê duyệt và chấp thuận theo quy định, không có báo cáo tài chính năm trước liền kề của năm phát hành được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán.
Đồng thời, đơn vị môi giới, các ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán cần minh bạch hơn trong quá trình tư vấn phát hành trái phiếu. Thậm chí, nhiều đơn vị hoạt động môi giới đầu tư trái phiếu khi chưa được cơ quan thẩm quyền cấp phép.
Các công ty chào bán không tuân thủ quy định, chưa xác nhận minh bạch thông tin đơn vị phát hành trái phiếu. Thậm chí, các đơn vị tư vấn và đại lý phát hành đã có động thái để “hỗ trợ” nhà đầu tư không đủ tiêu chuẩn tham gia mua TPDN phát hành riêng lẻ để thu hút dòng tiền.
Liên quan đến pháp lý và tính khả thi cho các trái chủ khi được doanh nghiệp đề nghị đổi trái phiếu thành cổ phiếu, luật sư Hưng cho rằng, các công ty bất động sản nếu muốn bàn bạc với nhà đầu tư để hợp tác kinh doanh thì cần minh bạch các dự án, các vấn đề pháp lý, quy mô và tiến độ các dự án. Đồng thời, nhà đầu tư quan tâm nếu hoán đổi từ trái phiếu sang cổ phiếu thì định giá tài sản như thế nào, dựa trên cơ sở nào để định giá, làm thế nào để đảm bảo quyền lợi của trái chủ.
“Nói chung, thị trường trái phiếu vẫn còn nhiều doanh nghiệp lành mạnh. Những trái phiếu có tài sản đảm bảo thì tính an toàn vẫn cao. Cuối cùng, nếu nhà đầu tư cảm thấy có dấu hiệu lừa đảo thì có thể tố cáo đến cơ quan công an để được thụ lý hồ sơ và giải quyết theo quy định”, luật sư Hưng nói.
Để giúp doanh nghiệp giải tỏa áp lực trái phiếu đáo hạn, ông Mã Thanh Danh, Chủ tịch CTCP Tư vấn Quốc tế CIB đề xuất 3 nhóm giải pháp.
DN nên liệt kê xem tài sản còn lại những gì. Đối với DN đang kinh doanh tốt nhưng trái chủ yêu cầu mua lại thì có thể dùng nguồn tiền mặt để mua lại, giúp giải tỏa bớt áp lực. Nếu không đủ tiền, DN có thể đi vay thêm hoặc thế chấp một phần trái phiếu với lãi suất cao hơn để vay tiền mua lại phần còn lại. Bên cạnh đó, với tình hình kinh doanh ổn định, DN có thể thương lượng trực tiếp với trái chủ để họ chờ đến hạn. Trong trường hợp trái chủ nhất quyết yêu cầu mua lại, DN có thể thương lượng để trái chủ chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu.
Riêng với những DN có tài chính không đủ mạnh hoặc kinh doanh kém quả quan, yêu cầu mua lại trái phiếu thực sự là áp lực không nhỏ. Vì vậy, DN cần chuẩn bị một kế hoạch tái cấu trúc DN rõ ràng để thương lượng với trái chủ. Nếu không được, DN buộc phải bán các tài sản mình đang có để thanh toán với các trái chủ. Đó có thể là đất đai, thương hiệu, hệ thống phân phối…
Ngoài ra, DN cần tính đến phương án tham gia thị trường mua bán nợ. Tuy nhiên, các công cụ mua bán nợ tại thị trường Việt Nam hiện vẫn chưa phổ biến. Đồng thời, nếu có một thị trường trái phiếu thứ cấp hoạt động bài bản, thì các trái chủ khi cần bán lại sẽ giao dịch trực tiếp trên thị trường này, giảm bớt áp lực cho doanh nghiệp.