Nhà thơ Giang Nam do tuổi cao và đau yếu, đã nhập viện điều trị nhiều tháng qua. Những người yêu mến nhà thơ Giang Nam mong mỏi được cùng ông đón Tết Quý Mão, nhưng ông chìm vào hôn mê nhiều ngày và lặng lẽ vẫy chào dương gian vào mùng 2 Tết. Biết rằng, đại thọ như nhà thơ Giang Nam đã là một phúc phận hiếm hoi, nhưng công chúng vẫn thấy bùi ngùi tiếc nuối.
Nhà thơ Giang Nam. Ảnh: TL |
Nhà thơ Giang Nam tên thật Nguyễn Sung, sinh ngày 2-2-1929 tại Ninh Bình, Ninh Hòa, Khánh Hòa. Khi Cách mạnh tháng Tám bùng nổ ở quê nhà, chàng trai Nguyễn Sung đã đứng vào hàng ngũ kháng chiến. Tình yêu đất nước và khát vọng hòa bình đã vun đắp chàng trai Nguyễn Sung thành nhà thơ Giang Nam.
Đồng nghiệp cầm bút cùng chiến đấu với nhà thơ Giang Nam là nhà thơ Hoài Vũ đã hơn một lần khẳng định rằng: “Giang Nam là nhân vật khí phách nhất, gan dạ nhất trước đạn bom. Ông ấy xứng đáng được phong Anh hùng ngay trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước ở miền Nam”.
Dù khẳng định bản thân chỉ làm thơ vì nỗi đau của dân tộc và của chính mình trước tội ác kẻ thù, nhà thơ Giang Nam vẫn có một tác phẩm lừng lẫy là bài thơ “Quê hương”. Được viết tại căn cứ Hòn Dù nằm phía Tây của thành phố Nha Trang vào năm 1960, dài 35 câu, rung động nhờ câu chuyện có thật: “Tuổi còn thơ ngày hai buổi đến trường/ Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ/ Ai bảo chăn trâu là khổ/ Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao/ Những ngày trốn học/ Đuổi bướm cầu ao/ Mẹ bắt được/ Chưa đánh roi nào đã khóc/ Có cô bé nhà bên/ Nhìn tôi cười khúc khích”...
Nếu nói một cách chi ly, thì nhà thơ Giang Nam chỉ đóng góp một nửa bài thơ “Quê hương”, còn nửa bài thơ “Quê hương” thuộc về nhân vật nữ có tiếng cười khúc khích.
Nhân vật nữ ấy là Phạm Thị Chiều, một người con gái làng chài, nhỏ hơn Giang Nam hai tuổi. Họ gặp nhau và yêu nhau gần đúng như bài thơ miêu tả. Những ngày chuẩn bị ký Hiệp định Geneve, họ đã làm đám cưới, rồi mỗi người một hướng để thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Năm 1959, bà Phạm Thị Chiều cùng con gái nhỏ của họ, bị bắt giam ở nhà lao Phú Lợi – Bình Dương và chẳng có tin tức gì.
Vì vậy, nhà thơ Giang Nam choáng váng khi có người nhầm lẫn cho biết vợ con của ông không còn nữa, và ông đã gieo xót xa riêng mình xuống trang giấy mà thành bài thơ “Quê hương” đầy day dứt: “Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm/ Có những ngày trốn học bị đòn roi/ Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất/ Có một phần xương thịt của em tôi”.
Khi bài thơ “Quê hương” phổ biến khắp ba miền, bà Phạm Thị Chiều được trả tự do vào năm 1962, nhưng sau đó lại bị địch bắt và lưu đày ra Côn Đảo. Mãi đến năm 1973, Hiệp định Paris ký kết, bà Phạm Thị Chiều mới được sum họp với nhà thơ Giang Nam. Năm 2013, nữ du kích có tiếng cười khúc khích trong bài thơ “Quê hương”, qua đời ở tuổi 82.
Ngoài bài thơ “Quê hương” viết ở vùng đất Diên Khánh, những tác phẩm tiêu biểu nhất của nhà thơ Giang Nam đều ra đời trên chiến trường Nam bộ. Từ năm 1963 đến năm 1975, nhà thơ Giang Nam gắn bó với Trung ương Cục miền Nam và công tác ở Hội Văn nghệ Giải phóng. Trực tiếp tham gia cuộc tổng tiến công Mậu Thân 1968, nhà thơ Giang Nam được chứng kiến một thời khắc lịch sử bi hùng khó quên của dân tộc.
Ký ức ngổn ngang và chất chồng được ông lần giở tỉ mỉ và trân trọng trong trường ca “Ánh chớp đêm giao thừa” với những câu thơ như cuộn trào, như nhắc nhớ. Từ những hồi hộp trước đợt xuất kích: “Chúng tôi chờ tin/ Từ những sư đoàn chủ lực đang hành quân/ Chúng tôi chờ tin/ Từ những dòng sông âm thầm dân công ra phía trước/ Họ đi về phía các anh/ Về phía mùa xuân/ Về phía Sài Gòn/ Thành phố đau thương nhưng không bao giờ khuất phục” đến những giây phút cảm thông lặng lẽ “Anh yêu em như nước sông luôn chảy một dòng/ Biết xa nhau để có ngày gần lại/ Cầm bàn tay, ôi những ngón búp măng thời con gái/ Anh đã làm gì cho bớt những vết chai?” và những hy vọng bập bùng như lửa cháy “Ngày mai, em ơi ngày mai/ Sẽ trả về cho chúng ta cuộc đời thường hằng mơ ước/ Sẽ nổ trên đầu thù ngàn khối thuốc/ Từ căn phố này bé nhỏ không tên/ Và từ hàng me hò hẹn của chúng mình…”.
Với nhà thơ Giang Nam, cuộc đời thi ca song hành cuộc đời cách mạng. Không chỉ có bài thơ “Quê hương” và trường ca “Ánh chớp đêm giao thừa” chứng minh điều đó, mà chính nhà thơ Giang Nam còn trực tiếp nhấn mạnh trong bài thơ “Nghe em vào đại học” về mạch nguồn bổ ích để sống và viết của bản thân: “Anh sẽ để riêng một đêm thức suốt/ Kể em nghe chuyện chiến đấu miền Nam/ Câu chuyện mở đầu: "Thuở ấy, ở quê hương/ Anh chỉ học có một trường: Cách mạng”.
Tận tuỵ với lý tưởng, nhà thơ Giang Nam cũng gặt hái được nhiều hoa thơm trái ngọt trên bước đường danh vọng. Sau khi non sông liền một dải, nhà thơ Giang Nam có nhiều năm làm Tổng Biên tập báo Văn Nghệ của Hội nhà văn VN, rồi chuyển về quê hương làm Chủ tịch Hội văn nghệ Khánh Hoà, rồi đảm nhiệm cương vị Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Khánh Hoà cho đến lúc nghỉ hưu năm 1993.
Nhà thơ Giang Nam được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001. Những năm cuối đời, nhà thơ Giang Nam vẫn không ngừng sáng tác với tâm niệm: “Nhà thơ rất cần chân thực, bởi chỉ có chân thực với chính mình thì thơ mới có giá trị. Thơ là cái tôi riêng, cái bản ngã của mỗi cá nhân và hãy nói tiếng nói của lòng mình, chứ đừng dùng thơ làm sự tiến thân, làm trang sức cho mình”.
Bây giờ nhà thơ Giang Nam không còn nữa, nhưng bài thơ “Quê hương” mà ông để lại vẫn tiếp tục vang vọng cho nhiều thế hệ sau.
Linh cữu của nhà thơ Giang Nam được quàn tại tư gia (46 đường Yersin thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa) lễ truy điệu diễn ra lúc 14g30 ngày 25/1, và an táng tại Nghĩa trang Phước Đồng, thành phố Nha Trang.