Luật sư tư vấn
Căn cứ điều 1 Luật Trẻ em năm 2016, khoản 1 điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), hành vi đánh người mà gây thương tích cho họ dù dưới 11% vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, nếu thuộc các trường hợp sau:
- Đối với trẻ em, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ.
- Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người.
- Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm.
- Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình.
- Có tổ chức.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn.
- Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
- Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê.
- Có tính chất côn đồ.
- Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
Như vậy, nếu người nào đánh trẻ em mà gây thương tích nhẹ cho trẻ em (dưới 11%) vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự, khung hình phạt thấp nhất là bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.
Lưu ý, trường hợp không gây thương tích nhưng làm tổn hại về tinh thần của trẻ em thì cũng bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng và chịu mọi chi phí để khám bệnh, chữa bệnh (nếu có) cho trẻ em theo điểm b khoản 1 và điểm a khoản 2 điều 22 Nghị định 130/2021/NĐ-CP.
Luật sư Phạm Thanh Hữu
Đoàn luật sư TP HCM
Xem thêm: lmth.2586744-ut-tahp-ib-oc-ehn-hcit-gnouht-yag-me-ert-hnad/ten.sserpxenv